Seatimes – (ĐNA). Nhà rường là một di sản đặc trưng của Huế, dù nhà rường không chỉ là của riêng cố đô. Phía bắc Huế, Quảng Trị, Quảng Bình cũng có nhà rường. Phía nam Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi cũng có nhà rường. Thậm chí nhà rường còn xuất hiện ở cả vùng Tây Nam Bộ. Dù vậy, hễ nói đến nhà rường là người ta lại lập tức nghĩ đến xứ Huế! Chỉ vì một điều thật đơn giản, ở Huế từ vua chúa, hoàng thân quốc thích, quan lại đến người dân đều ở nhà rường. Nhà rường là một phần quan trọng, độc đáo của văn hóa Huế.
Nhà rường hẳn có từ rất sớm, ba trăm hay bốn trăm năm trước, thậm chí có thể còn sớm hơn nữa. Giữa thế kỷ XVIII, các giáo sỹ, thương nhân người nước ngoài đến Huế đã mô tả chúa Nguyễn ở trong những ngôi nhà rường bóng lộn với cột kèo chạm trổ tinh vi. Đó là khi nhà rường đã hoàn thiện về kết cấu và mỹ thuật. Còn quá trình hình thành, chuyển biến để tạo lập nên một loại hình kiến trúc có quy tắc và phong cách riêng hẳn không hề đơn giản. Chúng tôi vẫn cho rằng, nhà rường có gốc từ miền Bắc, có thể khởi thủy là căn nhà sàn gỗ của người Mường vùng Thanh-Nghệ, theo chân những di dân Nam tiến từ thế kỷ XIV-XV, rồi được thay đổi để phù hợp với phong thổ của vùng đất mới.
Trong bối cảnh hiện nay, nhà rường Huế đang mất đi khá nhiều trước cơn lốc đô thị hóa, đồng thời cũng xuất hiện những xu thế tích cực trong việc biến đổi nhà rường, phù hợp với mục đích và công năng sử dụng mới. Vì vậy, việc nghiên cứu để bảo tồn, phát huy giá trị nhà rường Huế một cách hiệu quả là việc làm rất cần thiết và cấp thiết.
Thế phong thủy của nhà rường Huế
Khi dựng nhà rường, các chủ nhân bao giờ cũng cẩn thận tuân thủ những nguyên tắc của thuật phong thủy được lưu truyền từ nhiều đời. Dĩ nhiên khi tạo lập một ngôi nhà rường, người ta có những mục đích không hoàn toàn giống nhau: người lớn tuổi thì muốn có một nơi ở để an dưỡng tuổi già, người bận rộn với công việc thế sự thì cần có môi trường yên tĩnh nghỉ ngơi, người có sẵn tiền bạc thì muốn phô trương vẻ tao nhã… Nhưng dù với sở thích gì đi nữa, ai cũng muốn có một ngôi nhà vững bền với thời gian, một ngôi nhà có thể truyền lại cho con cháu sau này.
Mặt khác khi con người sống trong một ngôi nhà, ai cũng như ai đều mong muốn với ngôi nhà đó đem lại thuận lợi không những cho mình mà còn cho với những người thân thuộc, tránh được những tai ách, bệnh tật; nói chung là tìm cát tránh hung. Sở thích cộng thêm ước muốn đã tạo thành mục tiêu cho chủ nhân khi qui hoạch ngôi nhà rường của mình. Phong thủy học hay gọi đơn giản là môn Địa lý là phương cách giúp chủ nhân có thể có được những thuận lợi dưới ảnh hưởng của thiên nhiên thời tiết, khả dĩ đem lại sức khoẻ cho bản thân và những người sinh hoạt trong một ngôi nhà. Đó là phương pháp điều tiết các yếu tố Phong (gió) và Thủy (nước) để dẫn khí lành và ngăn chận khí hung vào nơi mình sinh sống.
Bước đầu tiên của công tác quy hoạch một ngôi nhà rường là xác định hướng. Sơn hướng là tối quan trọng! Đó là câu trả lời chung từ các chủ nhà rường, các thầy địa lý ở đất cố đô khi được hỏi, yếu tố nào là quan trọng nhất khi bắt đầu quy hoạch nhà rường. Sơn hướng gồm 24 phần khi phân chia không gian, dùng Thiên Can, Địa Chi cùng Bát quái để xác định. Tùy theo tuổi, và tùy theo năm sẽ có những Sơn hướng đại lợi hoặc hung sát. Đây là cách khá phổ biến và tương đối dễ hiểu. Chính vì thế mà nhiều người chỉ cần lật sách xem tuổi của mình trong Lục thập Hoa giáp, nếu thấy hợp với hướng nào thì cố tìm cách để mua cho được mảnh đất để có thể quay về hướng đó. Người Huế quan niệm, Sơn hướng hay địa thế là vị trí của cả cuộc đất mà trên đó sẽ dựng cơ nghiệp lâu dài nên nhất thiết phải xem sông ngòi, đường sá, để biết thuỷ tụ nơi nào, hướng gió lợi hại ra sao…
Về mặt này cần phải có một kiến thức sâu rộng về phong thủy mới xác định được nên người ta thường phải nhờ vào các thầy phong thủy để định hướng cho khu nhà rường của mình. Một số nhà Phong thủy học khác lưu ý rằng, chú ý sơn hướng nhưng phải phối hợp với Cửu cung. Nếu tốt hơn là hợp với bản mệnh của chủ nhà. Cửu cung là phép tắc dựa vào Hà đồ và Lạc thư, để biết sự xoay chuyển của vận khí.
Cách tính toán cũng không đến nỗi phức tạp, được xem là một phương pháp đã có sự cải biên, không dựa vào cổ pháp. Tuy nhiên cũng có người cho rằng, khi xác định hướng thì Mệnh chủ không quan trọng lắm vì theo quan điểm của họ, thì không lẽ đến đời con, đời cháu có tuổi khác với gia chủ thì khu vườn lại phải đổi hướng sao? Vả lại căn cứ vào thực tế, nhiều nhà vẫn ở yên ổn đến bốn năm đời mà có đổi thay gì đâu. Vì vậy, một số chủ nhà rường Huế lại cho biết, khi xác định hướng nhà rường người ta đã chú trọng địa thế chứ ít chú ý đến Mệnh chủ. Nhưng khi xác định hướng trên thực tế lại phối hợp với ngũ hành để điều tiết.
Đây là cách dựa vào cổ pháp, mục đích là chế một ngôi nhà làm sao cho cân phân ngũ hành. Trong lý thuyết về Phong thuỷ đã quy định rõ về ngũ hành cho một ngôi nhà, những phần nào thuộc kim, thuộc hoả, hoặc thuỷ, thổ, mộc…Với lý giải của quan điểm này có thể dễ dàng giải thích cách bố trí thích hợp cho ngôi nhà vườn hơn là hai quan điểm trên. Tuy nhiên, cũng có một nhóm các nhà phong thủy cho rằng, khi xác định hướng của nhà rường, cần phải dựa vào Bát quái đồng thời cũng phải căn cứ vào mệnh cung của chủ nhân. Dựa vào Bát quái tức dựa vào tám hướng của 8 quẻ trong Bát quái, nhưng hướng này phải thích hợp với chủ nhân, tức xem chủ nhân thuộc Đông hay Tây tứ trạch. Đông có 4 hướng, tây có 4 hướng nhưng chỉ có hai hướng trong đó là tốt mà thôi. Nếu gặp trở ngại họ sẽ chuyển hướng cổng sao cho thích hợp (dựa vào câu “môn chuyển tinh chuyển” trong Địa lý).
Trong dân gian xứ Huế, nói chung là người ta yêu thích hướng Nam, thích nhà quay mặt về hướng Nam: “Vợ đàn bà, nhà hướng nam”. Nhưng đối với những người muốn xây dựng nhà rường ngày xưa-chủ yếu thuộc giai cấp quý tộc, quan lại thì hướng Nam không hẳn là quan trọng. Cốt là hướng nhà phù hợp với địa thế của khu vực cùng vận mạng của bản thân. Những yếu tố không phù hợp sẽ dùng các phương pháp của phong thủy để điều tiết.
Bước thứ ba khi quy hoạch nhà rường là người ta sẽ xác định những cấu trúc phụ chung quanh ngôi nhà-tòa kiến trúc chính của nhà rường, như bình phong, non bộ, hồ nước…. Phần lớn các nhà phong thủy đều cho rằng những công trình phụ này được tạo nên do hai mục đích: Hỗ trợ và tạo nên vẻ đẹp hoàn chỉnh của ngôi nhà và khu vườn; Ngăn chận những điều bất lợi có thể đến với chủ nhân cùng gia quyến.
Việc tạo sự hoàn chỉnh cùng vẻ đẹp của nhà rường Huế là điều đương nhiên. Còn việc ngăn chặn, hay tạo thuận lợi về mặt phong thủy thì được hiểu theo nhiều cách giải khác nhau. Như cái bình phong, người thì quan niệm sử dụng để tránh lối đi thẳng vào nhà (nhất là nhà thờ vì như vậy không đúng lễ ngày xưa), người thì cho rằng tránh được đường trực xạ vào nhà, người thì bảo tránh dẫn hỏa vào nhà, người dùng Ngũ hành lại nghĩ rằng đó là cách tạo một hành trung gian để tùy cơ mà điều tiết. Còn như hồ nước, người thì cho là tạo nơi “tụ thủy tích phúc” nên cần phải xem xét kỹ vị trí, người thì cho là chỗ cản hỏa khí nên đương nhiên phải đặt trước nhà…
Đối với các yếu tố khác như giả sơn – non bộ hay những đá tảng, người thì cho rằng, đặt non bộ hay sắp xếp các tảng đá là nhằm tạo sự cân bằng cho ngôi nhà rường, người thì cho là tạo sự ngăn cản các yếu tố chung quanh không phù hợp. Vị trí của các cấu trúc phụ này còn có ảnh hưởng quan trọng đối với các phần của ngôi nhà như phần Chu tước (tiền đường), Huyền vũ (phần hậu)… Tác động vào chúng sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến chủ nhân và các thành viên trong gia đình. Sách Địa lý có câu như: “Phá tiền đường hại gia trưởng”…
Yếu tố có ảnh hưởng quan trọng nhất đến nhà rường Huế là chiếc cổng/cửa chính nhà rường. Khi xác định vị trí cho chiếc cổng/cửa cũng được thực hiện rất công phu, và về vấn đề này cũng có nhiều quan điểm khác nhau: Nhiều người đo cổng thì lấy theo cung hợp với mệnh của chủ nhân. Mỗi cung đều có hướng riêng của nó, như Mệnh chủ hợp với cung Li thì nên mở cổng hướng Nam chẳng hạn…
Cũng có người vận dụng cả Bát quái, hay Sơn hướng để xác định vị trí và kích thước của cổng; Người thì dựa vào Ngũ hành cho rằng cổng liên quan đến bên ngoài, tùy vị trí ngôi nhà mà điều tiết vị trí để dẫn khí của các hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa) vào nhà cho thuận lợi. Lại phải xem xét hướng của nhà đối với hướng của thiên nhiên để luận vượng suy của Ngũ hành mà điều chỉnh; Lại có quan điểm phối hợp giữa môn (cổng) và hộ (cửa) theo câu “Môn đương hộ đối”. Đây là quan điểm phổ biến nhất, có nguồn gốc xa xưa từ bên Tàu. Gặp ngôi nhà khó sửa được hướng (như phải nhìn ra đường, nhìn ra sông…) thì cần sửa cửa để làm là lệch hướng cổng. Lại có thể chuyển cửa lên tầng gác, nếu phần dưới không sử dụng để sinh sống…
Ảnh hưởng của cổng/cửa đối với gia chủ, người thì cho nặng về công danh, quan hệ bên ngoài, người thì lại nặng về tiền tài, phúc lộc… Ngoài ra, một số nhà phong thủy quan niệm, cần mở cổng hậu hoặc để lấy khí từ mặt sau nhà, hoặc để thủy khí có nơi thoát. Với quan điểm phần sau nhà là biểu tượng cho con cháu (tử tôn) nên vị trí của cổng hậu cũng phải theo hướng phù hợp chủ nhân, hoặc phù hợp Ngũ hành… Trong dân gian vùng Huế cũng thường có quan niệm làm nhà cho có phần hậu…. Mặt khác, cổng/cửa lại có liên hệ đến hướng bếp ở trong nhà nên người ta còn phải tùy vị thế của cổng và cửa mà chọn hướng bếp cho thích hợp.
Dụng cụ quan trọng nhất mà người ta sử dụng để tính toán kích thước của cổng/cửa và nhiều yếu tố khác trong khu nhà vườn là cây Thước Lỗ Ban. Thước là dụng cụ khá thông dụng đối với các thầy phong thủy tại Huế hiện nay. Tuy nhiên trên thị trường xuất hiện quá nhiều loại thước kích cở khác nhau, chính người sử dụng cũng không rõ là mình đang sử dụng là loại thước gì. Ngay những người thợ xây dựng cũng có ghi chép truyền tay những kích cỡ về cổng, cửa… cho là tốt, hoặc dựa theo một số thầy phong thủy, hoặc dựa theo vạch màu đỏ ghi trên thước đang bán tại thị trường.
Theo ý kiến của một số thầy phong thủy, thì thước Lỗ Ban với chiều dài 33 phân không còn được sử dụng hiện nay tại Huế, mà phần lớn dùng thước Quan môn dài 4 tấc 18 li. Trước kia người ta còn dùng loại thước tương truyền có từ đời Gia Long, bằng đường kính của 22 đồng tiền (ăn 3) niên hiệu Gia Long dài đến 5 tấc 5 phân 8 li. Thước Quan môn gồm 8 cung, mỗi cung lại chia 5 phần. Theo ý của họ thì “Quan” có nghĩa là “mở” vì thước này chính yếu dùng để mở cổng. Thông thường dùng thước Quan môn để đo bề rộng của cổng, cửa chính, lối ra nhà sau, cửa hậu… là những yếu tố được xem là chính yếu của nhà rường, còn những cửa khác cũng được xem xét nhưng không quan trọng bằng.
Khi đo đạc tính toán các kích thước trên, thầy phong thủy thường phối hợp với bước chân của chủ nhân. Với nhà ở (dương trạch) đều dùng số lẻ (dương số), nên số bàn chân (đặt nối tiếp) của chân trái cũng là số lẻ như 1, 3, 5, 7, 9 …, số lượng căn cứ vào kích thước của cổng/ cửa rồi gia thêm một phần trên thước Quan môn mà dừng ở cung thích hợp. Vì thế chỉ dùng trong phạm vi của một thước Quan môn, mà không dùng bội số của thước Quan môn khi mở những cổng hay cửa khá lớn (tức đo đến hai, ba, bốn, năm thước chẳng hạn).
Trên thực tế khi khảo sát, đo đạc lại các cổng/cửa của những công trình kiến trúc nhà rường tại Huế, như phủ đệ, cổng cung miếu điện… bằng cây thước Quan môn, chúng tôi thấy, kích thước các công trình không hoàn toàn rơi vào những cung tốt trên thước. Ngay trong cùng một cấu trúc kích thước giữa cửa và cổng cũng không tìm ra được sự phối hợp tương thích theo quy tắc phong thủy (như cổng có cung tốt thì cửa lại rơi vào cung xấu). Điều này thật khó lý giải?! Một số thầy phong thủy từng tính toán cho rất nhiều nhà rường lại có quan niệm khá “thoáng”. Họ cho rằng, không lẽ chỉ lệch một đôi phân của cổng/cửa mà làm biến đổi được vận mệnh con người ? Vì thế nên kích thước cổng và cửa chỉ là phụ, không quan trọng bằng vị trí của chúng.
Nhận diện giá trị kiến trúc, văn hóa – nghệ thuật nhà rường Huế
Nhà rường Huế không chỉ là một ngôi nhà gỗ. Nói đến nhà rường người ta lại lập tức nghĩ đến không gian vườn bao quanh nó. Nhà rường Huế thường được đặt trong một không gian rộng, có khuôn viên vây quanh, có thể là bức tường thành kiên cố hay chỉ là hàng chè tàu được cắt tỉa gọn gàng.
Trong không gian ấy, vườn luôn chiếm tỉ lệ lớn với màu xanh bao phủ bốn mùa. Công trình kiến trúc tuy chiếm tỷ lệ khiêm tốn, nhưng là một tổ hợp hoàn chỉnh với nhà chính, nhà phụ (hay nhà ngang), am miếu, bình phong, cổng, đôi khi có cả mồ mả của tổ tiên hay người thân trong gia đình. Cách bố trí tổ hợp trên cũng có vài kiểu đặc trưng: kiểu chữ Đinh, kiểu chữ Khẩu hay “Nội Công Ngoại Quốc”. Dù kiểu nào thì tính khép kín và hướng nội của nhà vườn Huế cũng thể hiện rất rõ, trong đó ngôi nhà chính-nhà rường luôn chiếm vị trí trung tâm ở mọi ý nghĩa.
Nhà rường Huế thực chất có nhiều loại hình. Căn cứ vào vật liệu xây dựng để phân loại thì có nhà gỗ, nhà tre, nhà tranh, nhà phên, nhà lá, nhà ngói… Căn cứ vào cấu trúc không gian để phân loại thì có nhà một gian, nhà 1 gian 2 chái (hay 1 căn 2 chái), nhà 3 gian, nhà 3 gian 2 chái, nhà 5 gian, nhà đơn, nhà kép… Căn cứ vào hình dáng để phân loại thì có nhà vuông, nhà bánh ú, nhà băng… Căn cứ vào kết cấu bộ vì lại có nhà rường, nhà rội…. Nhưng phổ biến nhất vẫn là ngôi nhà rường 1 gian 2 chái. Đây là ngôi nhà tiêu chuẩn mà người xưa sử dụng để giải thích về cách thức dựng nhà rường.
Về mặt kết cấu, quan trọng nhất đối với một ngôi nhà rường là bộ khung gỗ, hay bộ giàn trò. Đây là một tổ hợp các cấu kiện cột – kèo – xuyên – trến (còn gọi trếnh hay trính) – xà – đòn tay được ráp nối với nhau hoàn toàn bằng liên kết mộng, tạo nên bộ khung vững chắc của công trình. Bộ giàn trò ấy được đặt trên một mặt nền đắp cao thông qua các chân đá táng (hay đá tán, đá tảng) được gọt đẻo công phu hình vuông, chữ nhật, hình búp sen hay hình trái bí ngô (bí đỏ) để chống ẩm mốc, và cũng chứng tỏ sự quý giá của công trình. Nền nhà thường đắp bằng đất sạch, có trộn thêm vôi, tro để chống mối, chống ẩm, và được đầm chặt bằng nhiều lớp.
Có nơi, trên nền đất yếu, người ta còn biết dùng cả kỹ thuật khoan nhồi cọc cát để gia cường cho nền nhà. Kỹ thuật này về sau được sử dụng khá phổ biến trong kiến trúc cung đình thời Nguyễn. Với người giàu có, nền nhà thường được bó vỉa bằng đá thanh, đá cẩm thạch; người bình thường thì dùng đá tổ ong, đá núi hay gạch vồ để bó vỉa. Mặt nền thì lát gạch Bát Tràng, gạch hoa tráng men, thậm chí chỉ để nền đất không. Hệ mái của nhà rường Huế thường có độ dốc lớn để phù hợp với vùng đất có lượng mưa cực đoan. Nhà rường thường gồm 4 mái, lợp bằng ngói âm dương, ngói liệt hay lợp tranh. Dù lợp ngói hay lợp tranh thì mái cũng được lợp rất dày để tăng tác dụng cố định bộ khung xuống nền nhà và để cách nhiệt.
Về mặt không gian, nhà rường được tạo nên theo các nguyên tắc và triết lí phương Đông truyền thống. Triết lý ấy giải thích rằng, vạn vật vốn sinh ra từ cái đơn nhất (Thái Cực), nhưng cái đơn nhất ấy lại bao hàm hai nửa đối lập luôn tương tác với nhau (Lưỡng Nghi). Từ đó mới tỏa ra bốn phương, tám hướng (Tứ Tượng, Bát Quái) để sinh thành muôn loài. Chính vì thế mà để dựng một ngôi nhà rường, việc đầu tiên là phải xác định được điểm trung tâm (người Huế gọi là điểm Giáp Chuông). Đây là điểm giao nhau giữa hai đường tim nhà (theo trục Bắc-Nam và trục Đông-Tây). Từ điểm này người ta mới tính ra các phía Tiền (phía trước, được xem là phía Nam), Hậu (phía sau, phía Bắc), Tả (bên trái, phía Đông) và Hữu (bên phải, phía Tây). Các cấu kiện thuộc bộ giàn trò, gồm cả cột, kèo, xuyên, trến, xà… đều được định vị theo nguyên tắc này.
Không gian sử dụng của nhà rường thường được chia thành 4 phần chính có vách gỗ ngăn riêng: Gian giữa dành cho việc tiếp khách (phía ngoài) và thờ cúng Thần Phật, tổ tiên (phía trong); buồng phía Đông (Đông phòng) dành cho gia chủ (nam giới); buồng phía Tây dành cho mẹ hoặc vợ của gia chủ (nữ giới); phần phía sau nối suốt từ phía Đông qua phía Tây (gọi là Hậu liêu) thì dành làm phòng ngủ cho con cái hoặc làm kho. Có một không gian thứ 5 cũng rất quan trọng trong ngôi nhà rường là cái Tra (hay Rầm Thượng). Đây là một cái kho đóng kín bằng ván, được đặt ngay trên trần nhà của gian giữa hoặc chạy suốt cả các gian. Tất cả lương thực hay của cải quý giá của gia đình đều được cất trong chiếc kho này. Ở những vùng thấp trũng, cái Tra còn là nơi để cả gia đình nương náu trong những ngày lũ lụt. Và theo thiển ý của người viết, cái tra cũng chính là lưu ảnh của ngôi nhà sàn cổ xưa, nguồn gốc sản sinh ra nhà rường.
Gỗ, vật liệu chính cho nhà rường Huế cũng thể hiện rõ tính chất địa phương của loại hình kiến trúc này. Người Huế chuộng nhất là các loại mít, gõ làm cột, kiền kiền, chua, huỷnh làm hệ khung mái. Gỗ lim thì hầu như không dùng vì cho là thứ linh mộc và rất độc. Gỗ làm nhà phải để thật khô để khỏi cong vênh. Các thứ vật liệu khác như đá dùng để đẻo chân táng, ngói lợp, gạch xây, gạch lát cũng được chọn lựa cẩn thận.
Gắn liền với việc dựng nhà rường là rất nhiều nghi lễ truyền thống. Đầu tiên là lễ Phạt Mộc (hay lễ Phở Gỗ), tức lễ đẻo gỗ tượng trưng để chuẩn bị dựng nhà. Cây gỗ được chọn thường là cây đòn Đôông (hay đòn Nóc-tức đòn tay nóc). Sau vài nhát đẻo, người thợ cả sẽ làm một cây thước chuẩn (con cán) để dùng làm nhà và dùng cho việc tu sửa nhà sau này. Về công năng và ý nghĩa, cây thước này rất giống cây thước tầm của vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Tiếp đến là lễ Động Thổ để lễ cáo với thổ thần, chính thức khởi công công trình. Sau khi công trình được khởi công vẫn còn nhiều lễ khác: Lễ Thượng Trụ để dựng bộ vì đầu tiên của ngôi nhà; lễ Thượng Lương để đặt đòn Đôông; lễ Gài Nóc để bắt đầu lợp mái công trình… Rồi khi ngôi nhà đã hoàn thiện lại có lễ Tống Mộc để xua đuổi ma quỷ tránh xa khỏi bộ giàn trò; lễ Nhập Trạch để xin phép thổ thần cho gia chủ dọn về nhà mới; lễ An Vị để cung nghinh ông bà vào nhà. Và cuối cùng mới là lễ Tân Gia để gia chủ lễ tạ các thần thánh và mời khách khứa, bạn bè mừng ngôi nhà mới. Xong ngôi nhà chính, đến lượt nhà ngang, bếp, nhà vệ sinh, bình phong, non bộ, cổng… cũng được tính toán và xây cất cẩn thận để hợp với phong thủy. Ngay cả việc chọn và bố trí cây trồng như thế nào cũng hết sức quan trọng.
Nhà rường Huế đã có lịch sử mấy trăm năm hình thành và phát triển và tích luỹ kinh nghiệm. Bản thân nó đã chứa đựng và thể hiện rất nhiều yếu tố văn hóa nghệ thuật sâu sắc và hàm súc của con người Huế. Phong thủy trong nhà rường Huế là một nhân tố rất độc đáo mà nếu không giải mã được thì thật khó mà hiểu được dụng ý của người xưa. Việc dựng một ngôi nhà rường đối với người Huế luôn là một sự kiện trọng đại. Thường là người đến tuổi “Ngũ thập tri thiên mệnh” thì mới dám dựng nhà rường. Rồi ngôi nhà, và khu vườn gắn liền với nó đều được chăm chút rất cẩn thận, bởi nó chính là cái để thể hiện danh phận, trình độ văn hóa và vị trí xã hội của chủ nhân.
Kiến trúc nhà rường trong các cung điện, phủ đệ, chùa chiền, lăng tẩm…, cùng nhà vườn dân gian có mặt ở khắp mọi nơi trong thành phố Huế và vùng phụ cận. Mỗi công trình này dù có quy mô lớn hay nhỏ đều vận dụng kiểu thức nhà rường Huế, tạo nên những không gian riêng mềm mại mà cá tính. Có lẽ, đó là điểm nổi bật nhất của phong cách Huế (hay tính cách Huế) thể hiện trong cảnh quan kiến trúc truyền thống.
Dù vẫn còn hiện hữu nhưng nhà rường Huế đã thay đổi diện mạo rất nhiều. Nhiều nhà rường đã không còn, một số không nhỏ khác bị chia năm xẻ bảy, bị thay đổi cấu trúc. Ngay bên trong nhiều khu nhà rường, nhà ống hiện đại cũng đã xuất hiện, khu vườn chuyển đổi thành nhà hàng, quán cà phê. Một số nhà rường Huế còn lại khá nguyên vẹn cũng đang đứng trước những thử thách rất lớn trước cơn lốc đô thị hóa và nền kinh tế thị trường.
Bên cạnh đó, cũng có một số không nhỏ các nhà rường mới được dựng lên trong những “tân phủ đệ” của những người thành đạt, hay có điều kiện với kiểu dáng, hình thức có những thay đổi, biến hóa nhất định, tạo nên một dáng vẻ mới, sức sống mới của nhà rường. Vì vậy trong thời gian sắp đến, chúng ta cần nghiên cứu khảo sát một cách nghiêm túc, khoa học để đưa ra những giải pháp thiết thực nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di sản nhà rường Huế một cách hiệu quả trong bối cảnh đương đại, làm được điều này cũng sẽ góp phần thực hiện thành công mục tiêu “Xây dựng và phát triển Thừa Thiên Huế trở thành thành phố trực thuộc Trung ương trên nền tảng bảo tồn, phát huy giá trị di sản cố đô và bản sắc văn hoá Huế, với đặc trưng văn hóa, di sản, sinh thái, cảnh quan, thân thiện môi trường”./.
TS.Phan Thanh Hải/Giám đốc Sở Văn hóa Thể thao tỉnh Thừa Thiên Huế