seatimes – (ĐNA). Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không chỉ mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam, mà còn trở thành một trong những mốc son chói lọi của phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới thế kỷ XX. Tám mươi năm trôi qua, cuộc cách mạng ấy vẫn vẹn nguyên giá trị, khẳng định sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, ý chí quật cường và khát vọng độc lập, hạnh phúc của nhân dân Việt Nam. Sự kiện Cách mạng tháng Tám là mốc son vĩ đại trong lịch sử dân tộc, đánh dấu bước tiến nhảy vọt của cách mạng Việt Nam, những bài học lịch sử từ mùa thu Cách mạng ấy tiếp tục soi sáng con đường phát triển, hội nhập và khẳng định vị thế Việt Nam trong thời đại mới.
Giá trị thời đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Thứ nhất, xóa bỏ chế độ phong kiến, thực dân và phát xít, giành độc lập dân tộc, đưa Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới. Chế độ phong kiến tồn tại ở Việt Nam hàng nghìn năm. Có nhiều triều đại đã lãnh đạo nhân dân đánh bại các thế lực xâm lược ngoại bang, đưa dân tộc phát triển hùng mạnh. Tuy nhiên, lúc này, chế độ phong kiến ở Việt Nam đã lạc hậu, không thể đáp ứng yêu cầu của lịch sử. Vì vậy, với việc nhân dân cả nước giành chính quyền thành công và vua Bảo Đại đọc chiếu thoái vị ngày 30/8/1945 ở Huế: “Hạnh – phúc của dân Việt – Nam, độc – lập của nước Việt Nam, muốn đạt mục đích ấy, Trẫm đã tuyên bố Trẫm sẵn sàng hy – sinh hết tất cả mọi phương diện,… Từ nay trẫm làm vui được làm dân tự – do của một nước độc – lập, chứ Trẫm nhất quyết không để cho ai lợi dụng danh nghĩa của Trẫm hay của hoàng – gia mà lung lạc quốc – dân nữa. Việt – Nam độc – lập muôn năm! Dân – chủ Cộng – hòa muôn năm!”1, Cách mạng Tháng Tám xóa bỏ chế độ phong kiến ở Việt Nam đã lỗi thời, không còn phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Ngoài ra, Cách mạng Tháng Tám cũng trút bỏ ách nô lệ của thực dân, phát xít tàn bạo, man rợ thống trị dân tộc Việt Nam gần một trăm năm. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định trong Tuyên ngôn độc lập: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”. Từ đây, dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới – Kỷ nguyên độc lập, tự do gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đây là sự kiện trọng đại mang tính chất bước ngoặt trong lịch sử dân tộc, đưa nước ta từ một nước thuộc địa trở thành quốc gia độc lập, có “quyền tự quyết”. Nói về ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho rằng: “… Nhân dân Việt Nam đã làm nên câu chuyện thần kỳ tưởng chừng không thể làm được giữa thế kỷ XX. Lần đầu tiên trong lịch sử, một dân tộc vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, kinh tế kém phát triển, đánh thắng những cường quốc, đế quốc chủ yếu bằng sức của chính mình, nêu gương anh dũng, bất khuất, trí tuệ, tài năng trước toàn thế giới”2. Đồng thời, thắng lợi ấy là tiền đề để đưa dân tộc Việt Nam vững bước trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội – xu thế phát triển tất yếu của lịch sử loài người.

Thứ hai, sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời. Trước hết, phải khẳng định, Cách mạng Tháng Tám mang giá trị nhân văn sâu sắc, thể hiện rõ tư tưởng vì con người, vì hòa bình và vì sự tiến bộ xã hội. Mặc dù là một cuộc khởi nghĩa giành chính quyền, nhưng ở hầu hết các địa phương trên cả nước, chính quyền cách mạng được tiếp quản một cách trật tự, ít tổn thất nhân mạng, thậm chí nhiều địa phương gần như không “đổ máu”. Đây là điểm khác biệt rất lớn so với một số cuộc cách mạng tư sản trước đó, đặc biệt hiếm có trong lịch sử các cuộc cách mạng trên thế giới. Cách mạng Tháng Tám thể hiện rõ chủ trương nhân đạo, khoan dung của cách mạng đối với cả những người từng phục vụ trong bộ máy của chế độ cũ, đồng thời phản ánh sự đồng thuận sâu sắc của toàn xã hội đối với chính quyền cách mạng.
Ngoài ra, với việc nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, lần đầu tiên trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, một nhà nước thật sự của dân, do dân và vì dân được thiết lập. Nhà nước dân chủ nhân dân là nhà nước cách mạng, mang bản chất tiến bộ, phục vụ lợi ích của toàn thể nhân dân lao động, hoàn toàn khác với các kiểu nhà nước trước đó. Biểu hiện rất rõ, chỉ mấy tháng sau Lễ độc lập, ngày 6/1/1946, Chính phủ cách mạng lâm thời đã tổ chức Tổng tuyển cử tự do trong cả nước để bầu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp nhằm củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, xây dựng nền móng của chế độ mới. Hơn nữa, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (2/9/1945) là một sự kiện lịch sử quan trọng, một mốc son trong tiến trình phát triển của dân tộc, mở ra thời đại mới – thời đại của độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội – thời đại Hồ Chí Minh. Ngoài ra, Việt Nam có tên trở lại trên bản đồ thế giới với tư cách và vị thế của một quốc gia – dân tộc độc lập, có chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đúng như Tuyên ngôn độc lập đã khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do, độc lập”3. Từ đây, dân tộc Việt Nam làm chủ vận mệnh của mình dưới một chế độ tiến bộ, dân chủ, mang bản chất giai cấp công nhân, đại diện cho khát vọng độc lập, tự do và hạnh phúc của toàn dân tộc. Đồng thời, Việt Nam cũng đứng vào hàng ngũ các nước dân chủ trên thế giới.
Thứ ba, thay đổi thân phận, địa vị người dân Việt Nam. Một trong những thành quả vĩ đại và có ý nghĩa sâu sắc nhất của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là sự đổi đời mang tính lịch sử của người dân Việt Nam. Trước đây, ở Việt Nam, mặc dù một số triều đại phong kiến có tư tưởng thân dân, coi việc “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc” là “thượng sách giữ nước”, hay công khai tuyên bố “việc nhân nghĩa cốt ở an dân”, “nâng thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân” và cho dù đã ban hành nhiều bộ luật để “trị nước”, tuy nhiên, về cơ bản, suốt 9 thế kỷ tồn tại, chế độ quân chủ chuyên chế ở Việt Nam không có chỗ cho bất kỳ sự tham dự chính trị nào của người dân, tuyệt đại đa số người dân vẫn bị gạt ra ngoài hoạt động chính trị. Dưới ách thống trị của thực dân, phát xít, quyền “dân chủ” càng xa vời hơn nữa. “Về chính trị – Chúng tuyệt đối không cho dân ta một chút tự do dân chủ nào.
Chúng thi hành những pháp luật dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản ta đoàn kết.
Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu.
Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.
Chúng dùng thuốc phiện, rượu, cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.
Về kinh tế – Chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho dân nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều.
Chúng cướp không ruộng đất, rừng mỏ, nguyên liệu.
Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.
Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn, trở nên bần cùng.
Chúng không cho các nhà tư sản ta được giầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn”4. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đánh dấu sự chuyển biến lịch sử trong đời sống người dân. Nhân dân ta từ thân phận thấp hèn, nô lệ, trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh và tương lai của chính mình. Như vậy, Cách mạng Tháng Tám không chỉ là cuộc lật đổ một chế độ chính trị, mà còn là sự thay đổi toàn diện và sâu sắc về tư thế, vị thế, quyền lực và giá trị con người Việt Nam trong lịch sử dân tộc. Với ý nghĩa đó, Tổng Bí thư Lê Duẩn đánh giá: “Cách mạng Tháng Tám thắng lợi mở ra một bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc ta, một cuộc đổi đời chưa từng có đối với mỗi người Việt Nam…”5.

Thứ tư, cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới. Nếu như đầu thế kỷ XX, Cách mạng Tháng Mười Nga trở thành mặt trời soi sáng con đường cho nhân loại, thì đến giữa thế kỷ XX, Cách mạng Tháng Tám của Việt Nam đã truyền đi nguồn động lực to lớn đối với phong trào giải phóng dân tộc, trở thành nguồn cổ vũ các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Nó chứng minh cho chân lý, một dân tộc dù nhỏ bé, bị áp bức cùng cực vẫn có thể đứng lên giành quyền sống, quyền tự do nếu biết đoàn kết và có đường lối lãnh đạo đúng đắn. Chịu ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam, chỉ vài tuần sau, nhân dân Lào vùng dậy giành chính quyền và nước Lào tuyên bố độc lập ngày 12/10/1945, Ấn Độ (1947), Myanmar (1948)… Hơn nữa, sức ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Tám không chỉ dừng lại ở châu Á, tinh thần đấu tranh kiên cường của nhân dân Việt Nam đã thức tỉnh các dân tộc châu Phi đang rên xiết dưới ách thống trị của thực dân. Nhiều nước Bắc Phi vùng lên đấu tranh giành độc lập như Ai Cập (1952), Algérie (1962); riêng năm 1960 đã có 17 nước châu Phi liên tiếp tuyên bố độc lập khỏi chế độ thuộc địa (năm 1960 còn gọi là “Năm châu Phi”). Vì vậy, khi nói về ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”6. Đối với bạn bè quốc tế, từ năm 1945, Việt Nam đã trở thành biểu tượng của ý chí đấu tranh vì độc lập, tự do và được các dân tộc yêu chuộng hòa bình trên thế giới ngưỡng mộ, noi theo. Đồng thời, Cách mạng Tháng Tám cũng mở ra thời kỳ sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới, báo hiệu sự cáo chung không thể tránh khỏi của hệ thống thuộc địa vào giữa thế kỷ XX.

Phát huy các giá trị thời đại của Cách mạng Tháng Tám trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Thứ nhất, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.Thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã khẳng định chân lý: Chỉ có giành được độc lập dân tộc thì nhân dân mới có thể mưu cầu hạnh phúc và chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có thể bảo đảm độc lập dân tộc thực sự, mang lại ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi người dân. Ngày nay, tình hình thế giới có nhiều biến động phức tạp, nhưng độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia vẫn là thiêng liêng, là lợi ích cốt lõi cần bảo vệ cao nhất. Do đó, trong quan hệ quốc tế, Việt Nam cần giữ vững nguyên tắc độc lập, tự chủ, bảo đảm lợi ích quốc gia – dân tộc trên hết. Đồng thời, tích cực hợp tác, hội nhập quốc tế để tranh thủ sức mạnh thời đại cho phát triển đất nước. Bài học từ Cách mạng Tháng Tám giúp chúng ta nhận thức rằng, phải kiên quyết, kiên trì, khéo léo bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia trước mọi sức ép bên ngoài, nhưng cũng phải biết tranh thủ hòa bình, hợp tác để đưa đất nước hội nhập và phát triển bền vững.
Thứ hai, củng cố sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”7. Vì vậy, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, không ngừng củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân. Mặt khác, Đảng và Nhà nước cần nhất quán mở rộng vòng tay, trân trọng mọi đóng góp, lắng nghe mọi tiếng nói xây dựng, đoàn kết từ cộng đồng người Việt ở nước ngoài – những người đang góp phần kết nối Việt Nam với thế giới. Hiện nay, Việt Nam và Hoa Kỳ từ cựu thù đã trở thành đối tác chiến lược toàn diện, cùng hợp tác vì hòa bình, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì an ninh và ổn định khu vực. Vậy thì không có lý do gì để những người Việt Nam – cùng chung huyết thống, cùng một mẹ Âu Cơ, lại còn mang mãi trong lòng nỗi hận thù, chia rẽ và ngăn cách. “Hòa hợp dân tộc không có nghĩa là quên lãng lịch sử hay xóa nhòa sự khác biệt, mà là chấp nhận những góc nhìn khác nhau trong tinh thần bao dung và tôn trọng, để cùng hướng tới mục tiêu lớn hơn: xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, hùng mạnh, văn minh, thịnh vượng, để các thế hệ mai sau không bao giờ phải chứng kiến chiến tranh, chia ly và hận thù, mất mát như cha ông từng đối mặt. Chúng ta tin tưởng rằng, mọi người con đất Việt – dù sinh sống ở đâu, dù quá khứ thế nào – đều có thể đồng hành, chung sức, góp phần xây dựng một tương lai tươi sáng cho dân tộc”8. Có như vậy mới huy động và phát huy được sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng một nước Việt Nam độc lập, tự do, hạnh phúc, phồn vinh, văn minh, thịnh vượng, có vị thế và tiếng nói quan trọng trong cộng đồng quốc tế.

Thứ ba, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Một trong những nguyên nhân thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám chính là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Đông Dương (hiện nay là Đảng Cộng sản Việt Nam). Ngày nay, trước những thách thức của thời kỳ mới, đòi hỏi Đảng ta phải tiếp tục tự hoàn thiện, nâng cao năng lực cầm quyền và sức chiến đấu, phải thường xuyên tự đổi mới, chỉnh đốn, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, trong Đảng phải “giữ gìn đoàn kết như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Đồng thời, mỗi cán bộ, đảng viên phải “nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng suốt đời, “tự soi”, “tự sửa” và nêu cao danh dự, lòng tự trọng của người đảng viên”9, cán bộ công chức phải “vì dân, vì nước”. Bên cạnh đó, việc củng cố chính quyền của dân, do dân, vì dân cũng là bài học xuyên suốt. Ở bất cứ thời kỳ nào, chính quyền cách mạng muốn được dân tin yêu phải đặt lợi ích nhân dân lên trước, “muốn cho dân yêu, muốn được lòng dân, việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh… ”10.
Thứ tư, phải biết tranh thủ thời cơ, kết hợp sức mạnh nội lực và ngoại lực. Do có sự chuẩn bị lực lượng chu đáo, lại nổ ra đúng thời cơ nên Cách mạng Tháng Tám giành được thắng lợi “nhanh, gọn, ít đổ máu”. Đó là một điển hình thành công về nghệ thuật tạo thời cơ, dự đoán thời cơ, nhận định chính xác thời cơ và kiên quyết chớp thời cơ phát động toàn dân nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Đồng thời, Cách mạng Tháng Tám cũng cho thấy, thời cơ chỉ tồn tại trong khoảng thời gian nhất định, thậm chí rất ngắn, nếu do dự, bỏ lỡ sẽ phải trả giá đắt. Hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp 4.0, đất nước đứng trước không ít cơ hội để phát triển nhưng đồng thời cũng có nhiều thách thức đặt ra. Do đó, trong quản lý kinh tế, xã hội, Đảng và Nhà nước cần nâng cao năng lực dự báo, nhạy bén trước xu thế thời đại để đề ra quyết sách đúng lúc, tận dụng tối đa thời cơ cho phát triển. Đồng thời, “hơn lúc nào hết, chúng ta cần xây dựng một nền kinh tế tự lực, tự cường; một nền quốc phòng – an ninh toàn dân, toàn diện và hiện đại; một hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, một xã hội phát triển, đoàn kết, văn hóa và nhân văn”11.

Tám thập niên đã trôi qua kể từ mùa Thu lịch sử, song giá trị thời đại của Cách mạng Tháng Tám vẫn còn nguyên vẹn, tiếp tục soi đường, hun đúc niềm tin và ý chí cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình mạnh mẽ của dân tộc. Không chỉ là mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc, Cách mạng Tháng Tám còn trở thành biểu tượng rực rỡ của khát vọng độc lập, tự do, hạnh phúc của các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
TS.Bùi Nghĩa, TS. Nguyễn Tôn Phương Du, ThS. Hồ Thức Tài/Học viện Chính trị khu vực II
Tài liệu tham khảo
1.https://baotanglichsu.vn/vi/Articles/3096/7443/ve-tuyen-cao-thoai-vi-cua-hoang-dje-viet-nam-ngay-24-thang-8-nam-1945.html.
2.https://www.qdnd.vn/phong-chong-dien-bien-hoa-binh/tam-voc-vi-dai-y-nghia-to-lon-cua-cach-mang-thang-tam-va-quoc-khanh-2-9-mai-truong-ton-786478.
3, 4, 10.Hồ Chí Minh Toàn tập, t. 4 (1945-1946), Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, H, 2011, tr. 3, 1-2, 51.
5.Lê Duẩn, Tiến lên dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, Nxb Sự thật, H, 1980, tr. 13.
6, 7.Hồ Chí Minh Toàn tập, t. 7 (1951-1952), Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, H, 2011, tr. 25, 544.
8,11.https://baochinhphu.vn/bai-viet-cua-tong-bi-thu-to-lam-nuoc-viet-nam-la-mot-dan-toc-viet-nam-la-mot-102250427070220544.htm.
9.Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, H, 2021, t. II, tr. 237.