Seatimes – Đến Đà Nẵng, không khó nhận thấy khá nhiều KS, quán ăn, quán giải khát nhất là ở các tuyến đường ven biển toàn đề biển tên bằng tiếng Anh, trong khi chỉ thấy thỉnh thoảng có vài vị khách tây ra vào. Đành rằng, khi mở cửa hội nhập rồi, biển hiệu các điểm kinh doanh dịch vụ, trong đó có khách sạn nên đề kèm tiếng Anh để người nước ngoài biết đến. Cụ thể là Điều 18 của Luật Quảng cáo đã quy định khá chi tiết về vấn đề này, trong đó có quy định cỡ chữ tiếng Anh phải nhỏ hơn tiếng Việt, nhưng sử dụng tiếng Anh 100% hoặc tiếng Anh “lấn át” tiếng Việt như vậy thì quả là sai luật rồi.
Cách đây cũng khá lâu, tình cờ tôi được xem một cái giấy mời dự Lễ khai trương một khách sạn (KS) mới ở Đà Nẵng. Lật đi lật lại cái giấy mời được in khá đẹp trên giấy tốt, thì tuyệt nhiên không thấy lấy một dòng chữ tiếng Việt nào cả, ngoài tên của chủ khách sạn người Việt phía dưới chữ ký. Nếu ai không biết tiếng Anh thì coi như không biết đây là tờ giấy này nói gì! Theo một người bạn của người viết có mặt trong Lễ khai trương này thì buổi Lễ đó không thấy sự hiện diện của người nước ngoài nào. Vậy mà người ta lại in giấy mời toàn tiếng Anh để mời… người Việt!
Từ câu chuyện trên, nghĩ đến những con đường mà người viết đi qua mỗi ngày ở Đà Nẵng, không khó nhận thấy khá nhiều KS, quán ăn, quán giải khát nhất là ở các tuyến đường ven biển toàn đề biển tên bằng tiếng Anh, trong khi chỉ thấy thỉnh thoảng có vài vị khách tây ra vào. Đành rằng, khi mở cửa hội nhập rồi, biển hiệu các điểm kinh doanh dịch vụ, trong đó có khách sạn nên đề kèm tiếng Anh để người nước ngoài biết đến. Cụ thể là Điều 18 của Luật Quảng cáo đã quy định khá chi tiết về vấn đề này, trong đó có quy định cỡ chữ tiếng Anh phải nhỏ hơn tiếng Việt, nhưng sử dụng tiếng Anh 100% hoặc tiếng Anh “lấn át” tiếng Việt như vậy thì quả là sai luật rồi.
Dư luận đã không ít lần bất bình về tình trạng một số nơi ở nước ta, có những đoạn phố, con đường toàn đề biển tên cửa hiệu, nhà hàng, khách sạn bằng tiếng Anh, tiếng Hoa, và cả tiếng Hàn, tiếng Nga, trong khi tiếng Việt thì không thấy hoặc nếu có thì cỡ chữ rất “khiêm tốn” , tạo ra những khu “phố Tây”, “phố Tàu”… trong lòng Việt Nam. Có người đã nói là “Đi giữa “phố ta” mà cứ ngỡ như lạc vào một khu phố hổ lốn Âu – Á nào đó”, nhận xét đó quả là không sai. Chưa hết, ở các thành phố lớn, chữ nước ngoài nhan nhản khắp nơi. Bước chân ra đường là nhìn thấy nào là coffee, massage, shop… Thậm chí đến cả trường mẫu giáo, tiểu học họ cũng đặt tên, kẻ biển bằng tiếng nước ngoài … Các cháu học bậc mầm non dù có muốn đọc để giới thiệu tên trường, e rằng cũng không dễ. Không hiểu, tiếng Việt hết từ hay sao mà nhiều người bí từ đến thế!?
Có những nơi, bảng giới thiệu tìm mãi không ra một từ tiếng Việt, mặc dù quán hàng đó chỉ có người Việt ra vào. Trong “rừng chữ nghĩa” mặt tiền ấy, có không ít các bảng hiệu bằng tiếng nước ngoài, loại chữ “toàn Tây” có, loại “nửa Tây nửa ta” và cả những loại “chữ Tây” nhưng cả người nước ngoài và người Việt đều không hiểu nghĩa là gì! Chỉ nguyên chữ cà phê, mỗi quán cũng tự sáng tạo những tấm bảng hiệu quảng cáo rất to khác nhau, đề “chữ Tây” không ra Tây, ta không ra ta, đọc lên chẳng hiểu là gì. Chỗ thì café, nơi thì coffee, cũng có nơi là cà pê. Buồn cười là có những nơi, chỉ phục vụ người Việt mà cũng cố thêm vào những dòng chữ tiếng Anh to đùng, lấn hết cả dòng chữ quảng cáo bằng tiếng Việt. Thế nên mới có những chữ tiếng Anh ngô nghê của các công ty “sính” ngoại ghi đường dây nóng (Hotline) thì viết là “Holine”, thức ăn nhanh (Fast food) thì viết thành “Fast foot”, v.v… khiến không ít người phát ngượng thay cho chủ nhân quảng cáo. Thậm chí, có cơ quan, hội trường…, từ lúc xây xong đến khi sử dụng chưa một người nước ngoài nào bước vào, vậy mà cũng đề mỗi dòng chữ “No smoking” (không hút thuốc lá)…
Không hiểu sao người Việt lại “sính” dùng tiếng nước ngoài như vậy. Từ những câu giao tiếp thông thường cũng bị ngoại ngữ hóa, hễ mở miệng nói là pha tiếng tây loạn cả lên. Nhưng lúc cần phải nói bằng tiếng nước ngoài để “ra tiền” thì không nói được. Nhìn ra nước ngoài, những nước lân cận mà người viết từng đến, thì thấy rằng, họ đều dùng tiếng mẹ đẻ để ghi trên biển quảng cáo ở các phố. Khách không hiểu phải tự tìm ý nghĩa. Các thành phố ở Trung Quốc, Hong Kong, Nhật Bản, Hàn Quốc… bảng hiệu quảng cáo hay nhãn hiệu hàng hóa…, bao giờ tiếng mẹ đẻ cũng ở vị trí trang trọng nhất, được viết đậm nhất, chữ nước ngoài chỉ là thêm, bị đặt ở vị trí thứ yếu. Ai không đọc được phải tự tìm hiểu. Đó là lòng tự tôn dân tộc về ngôn ngữ. Đó là văn hóa doanh nghiệp, doanh nhân. Và đó cũng là nhưng nước phát triển hơn ta!
Cuối cùng, ở góc độ “chính thống”, nhiều nơi cũng còn sử dụng ngoại ngữ khá tuỳ tiện, đơn cử như một kênh thông tin, âm nhạc, giải trí hoàn toàn thuần tuý Việt Nam và dành cho người Việt mà ngay từ cái tên kênh đã dùng tiếng Anh, rồi là các chương trình trong đó cũng tiếng Anh, làm cho người ta có cảm giác như người Việt Nam ai cũng biết tiếng Anh và tiếng mẹ đẻ thì “cạn vốn” rồi!? Vể vấn đề này, có thể làm 1 kênh hoàn toàn tiếng Anh cho người Việt để ai thích mở mang kiến thức ngoại ngữ thì vào và cả người nước ngoài vào tìm hiểu để biết về đất nước, văn hoá, lịch sử nước mình cũng rất nên làm. Cái gì ra cái nấy, không thể “nửa nạc-nửa mỡ” như vậy, nó giống như sự học đòi vậy. Chương trình nào dùng thuần Việt thì hãy để nó thuần Việt, còn chương trình nào dành cho người muốn học ngoại ngữ, nhạc quốc tế … thì có thể sử dụng ngôn ngữ khác thoải mái…
Yêu ngôn ngữ cũng là sự tôn trọng Tổ quốc và tôn trọng chính mình, trong khi tiếng Việt không thiếu những từ hay, dễ viết, đặt tên, diễn đạt, thể hiện, sao không sử dụng mà dùng tiếng nước ngoài tràn lan, tùy tiện như vậy?! Người viết không phản đối việc học và không ngừng nâng cao kiến thức về ngoại ngữ, đất nước đang mở cửa, hội nhập nên ngoại ngữ là rất cần thiết, nhưng học ngoại ngữ khác với việc lạm dụng ngoại ngữ một cách tùy tiện, điều đó chỉ thể hiện ý thức dân tộc kém, tự hạ thấp bản thân và cả vi phạm pháp luật…. Không thể chấp nhận việc người Việt Nam lại tự làm tiếng mẹ đẻ của mình “lép vế” như vậy được./.
Hoàng Hạnh / Theo Tạp chí ĐNÁ