Seatimes – (ĐNA). Chiều nay (15/11/2024), đã diễn ra hội thảo “Gắn kết trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho các tỉnh vùng bắc Trung bộ và Duyên hải trung bộ” – một trong các sự kiện điểm nhấn, do Đại học Đà Nẵng chủ trì, trong dịp kỷ niệm 30 năm xây dựng – phát triển Đại học Đà Nẵng, một trong những Đại học vùng trọng điểm quốc gia.
Hội thảo hôm nay có ý nghĩa hết sức quan trọng, là dịp để các nhà lãnh đạo, các nhà quản lý, nhà trường, nhà khoa học và doanh nghiệp cùng nhau chia sẽ mối quan tâm, trao đổi kinh nghiệm và đề xuất các giải pháp hữu hiệu nhằm thúc đẩy hơn nữa sự gắn kết hiệu quả, bền vững và thực chất giữa 3 nhà “Nhà nước – Nhà trường và Doanh nghiệp” trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Đây là nút thắt làm cho công tác đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu của người trực tiếp sử dụng lao động, góp phần thực hiện thắng lợi chủ trương của Đảng và nhà nước, đặc biệt là Nghị quyết số 26-NQ/TW của Bộ Chính trị (*).
Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho các tỉnh vùng bắc Trungbộ và Duyên hải trung bộ: Giải pháp cho điểm nghẽn
Vấn đề đặt ra hiện nay là Vùng bắc Trung bộ và Duyên hải trung bộ vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng và lợi thế của mình, tốc độ phát triển kinh tế còn thấp so với hai đầu đất nước, đời sống của người dân trong vùng còn nhiều khó khăn, thu hút đầu tư còn hạn chế…, có nhiều nguyên nhân, song trong đó có nguyên nhân là chất lượng nguồn nhân nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu và kỳ vọng phát triển. Nhìn chung quy mô, chất lượng nguồn nhân lực của Vùng còn thấp so với hai trung tâm lớn ở hai đầu đất nước; chưa có nhiều tập đoàn, doanh nghiệp lớn, các dự án đầu tư trọng điểm lớn để tạo nên đòn bẩy phát triển kinh tế; chưa có lợi thế cạnh tranh trong thu hút, quy tụ nhân tài; nhân sự cấp cao còn thiếu hụt…, PGS.TS Nguyễn Ngọc Vũ – Giám đốc Đại học Đà Nẵng nhấn mạnh.
Nhận diện đúng đặc điểm bối cảnh vùng để sớm có kế hoạch tống kết, dự báo nhu cầu nhân lực sát thực tế cho cả vùng
Vùng bắc Trung bộ và Duyên hải trung Bộ gồm 14 tỉnh, thành phố: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế, Đà Nang, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận. So với các vùng khác trong cả nước, dân số vùng bắc Trung bộ và Duyên hải Trung Bộ có số lượng tương đối lớn. Tính đến cuối năm 2023, dân số toàn vùng là 20.768,7 nghìn người, chiếm 20,7% dân số cả nước (100.309,2 nghìn người), đứng vị trí thứ 2 sau vùng đồng bằng sông Hồng. Tốc độ tăng dân số trung bình hàng năm của vùng thời kỳ 2010 – 2023 là 0,4%/năm. Trong tổng dân số, thì lực lượng trong độ tuổi lao động, tính từ 15 tuổi trở lên là 10.707,4 nghìn người, chiếm 51,6 dân số (Nguồn số liệu dẫn từ Tổng cục Thống kê).
Theo TS. Nguyễn Dũng Anh – Phó Giám đốc Học viện Chính trị khu vực III (1), thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX và Kết luận số 25-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XI “Về phát triển kỉnh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng bắc Trung bộ và Duyên hải trung bộ”, những năm qua, các cấp, các ngành, nhất là các địa phương trong vùng đã nhận thức ngày càng rõ hơn về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của vùng; sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị được huy động; nhiều điếm nghẽn đối với phát triển được khơi thông, tiềm năng, lợi thế của vùng và từng địa phương trong vùng tùng bước đrrợc phát huy; đạt được nhiều kết quả quan trọng, khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực.
Trong đó, giai đoạn 2005 – 2020, kinh tế tăng trưởng bình quân 7,3%/năm, cao hơn mức trung bình cả nước. Quy mô kinh tế của vùng năm 2020 (theo giá hiện hành) tăng gấp 9,1 lần so với năm 2004, chiếm 14,5% GDP cả nước; GRDP bình quân đầu người đạt mức 56,9 triệu đồng/người/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng dịch vụ và công nghiệp là chủ đạo; một số ngành kinh tế cơ bản, nhất là các ngành kinh tế biển, các ngành có giá trị gia tăng cao được hình thành và phát triển; du lịch dần trở thành ngành kinh tế mũi nhọn…”.
Về cơ cấu, lực lượng lao động trong lĩnh vực nông-lâm-ngư nghiệp chiếm 58,5%; công nghiệp – xây dụng chiếm 17,5%; dịch vụ chiếm 24,0%. Sự phân bố lao động hiện nay cho thấy, sự chuyển dịch về cơ cấu lao động chưa tương thích với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Điều đó được thể hiện rõ qua tỷ trọng ngành nông-lâm-ngư nghiệp (chỉ chiếm 27,1% GDP), nhưng lực lượng lao động lớn (58,5%). Trong khi đó, các ngành thuộc lĩnh vực công nghiệp – xây dụng và dịch vụ ngày càng tăng (chiếm 72,9% GDP); công nghiệp – xây dụng và dịch vụ đang đòi hỏi nhiều lao động, thì lại đang thiếu hụt nhân lực (41,5%). Điều đó cho thấy, hiệu quả sử dụng lao động ở khu vực nông-lâm-ngư nghiệp thấp và càng tạo sức ép về giải quyết việc làm và ổn định thu nhập cho người dân, nhất là vùng nông thôn. Quá trình phát triển, các địa phương trong vùng vẫn luôn quan tâm đến phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triến kinh tế – xã hội, bước đầu có đạt được nhiều kết quả quan trọng, song bên cạnh đó, vẫn còn những hạn chế, bất cập.
Tồn tại hiện nay là phần lớn lao động ở khu vực nông thôn chưa qua đào tạo, hoặc đào tạo không cơ bản, trình độ văn hóa thấp. Trên thực tế, hiện nay yêu cầu lao động ở khu vực này chủ yếu là lao động phổ thông là chính, lao động thủ công ở các ngành nghề truyền thống, những ngành nghề đòi hỏi trình độ cao, áp dụng khoa học – kỹ thuật vào sản xuất nhìn chung ở khu vực này chưa phát triển.
Trong khi đó, với các vùng công nghiệp phát triển, thì trình độ đào tạo lao động còn nhiều bất cập, mất cân đối giữa cung và cầu so với yêu cầu phát triển kinh tế (trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày càng phát triển). Nhu cầu lao động có chất lượng cao (tức lao động có trình độ chuyên môn cao, có tác phong lao động công nghiệp, có ý thức, kỷ luật cao) ngày càng tăng, trong khi nguồn cung chưa thể đáp ứng.
Nhìn chung công tác đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế, bất cập, “một số chỉ tiêu về giáo dục và đào tạo chưa đạt mục tiêu đặt ra. Thị trường lao động chậm phát triến, thiếu linh hoạt, tỷ lệ thiếu việc làm còn cao; chất lượng lao động và việc làm còn thấp”. Thực tế đó, đã và đang đặt ra một số vấn đề cần quan tâm:
Đầu tiên, chưa có kế hoạch tống kết, dự báo nhu cầu nhân lực cho toàn vùng. Đây đáng lẽ là bước đầu tiên trong chiến lược đào tạo nhân lực, nhưng chưa được thực hiện, kế hoạch đào tạo chủ yếu dựa vào “suy đoán” thị trường. Nhiều ngành đào tạo chỉ đáp ứng nhu cầu thị trường lao động trước mắt, càng về sau thì bị bảo hòa (khi cơ cấu kinh tế chuyển biến chưa tương thích). Điều này phản ánh một thực tế là, công tác đào tạo hiện nay chưa thực sự xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn. Đào tạo đang thiếu định hướng trong chiến lược phát triển tổng thể chung của vùng.
Theo PGS.TS Nguyễn Ngọc Vũ – Giám đốc Đại học Đà Nẵng, hội thảo hôm nay mong nhận được các ý kiến đề xuất các cách tiếp cận mới trong qui hoạch nhân lực phù hợp với từng địa phương trong khu vực, nhất là nhân lực phục vụ cho công cuộc đổi mới sáng tạo, phát triển thành phố thông minh, khởi nghiệp… Đây là căn cứ quan trọng để các trường đại học thiết kế chương trình đào tạo phù hợp, tập trung nguồn lực để đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy, nâng cấp cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu đào tạo nhân lực chất lượng cao.
TS. Nguyễn Dũng Anh phân tích thêm: Hiện chính sách phân luồng trong đào tạo nhân lực chưa thật sự hiệu quả. Vì thiếu dự báo, dẫn đến đào tạo chưa có chính sách phân luồng đúng hướng, xu hướng thương mại hóa trong đào tạo khá phổ biến; đào tạo không gắn với sản xuất và thị trường sức lao động (không gắn với sử dụng). Cơ cấu đào tạo mất cân đối giữa cung và cầu. Nhu cầu lao động có chất lượng cao (lao động có trình độ chuyên môn cao, có tác phong lao động công nghiệp, có ý thức, kỷ luật cao) ngày càng tăng, trong khi nguồn cung chưa thể đáp ứng.
Ngược lại, hiện nay đang có một số lượng lớn người lao động được đào tạo bài bản nhưng lại không phù hợp với yêu cầu của công việc. Hệ quả là thất nghiệp hoặc làm những công việc không liên quan đến chuyên môn được đào tạo, gây lãng phí lớn vê kinh tế, tạo ra gánh nặng cho gia đình và xã hội.
Năm 2023 tỷ lệ lao động thất nghiệp và thiếu việc làm của bắc Trung bộ và Duyên hải trung Bộ lân lượt là 2,37% và 2,65%; còn cả nước chỉ là 2,28 % và 2,01%. Mặc dù, tỷ lệ lao động thất nghiệp tuy có xu hướng giảm qua từng năm nhưng không đáng kể. Nguyên nhân, thì như phân tích ở trên là do lao động của vùng dồi dào, trong khi cơ cấu kinh tế chưa đáp ứng được nhu cầu việc làm; bên cạnh đó trình độ tay nghề của người lao động không đồng đều, chưa đáp úng yêu cầu sử dụng, đặc biệt khi các khu kinh tế, khu công nghiệp phát triển, đòi hỏi lao động có trình độ ngày càng cao.
“Vùng bắc Trung bộ – Duyên hải trung bộ (đã rõ, là) “có vai trò, vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế, chính trị, vãn hỏa, xã hội, môi trường, quốc phòng an ninh và đối ngoại”, (song) dưới góc độ giáo dục đại học và khoa học công nghệ còn nhiều hạn chế, khó khăn, bất cập về quy mô, tiềm lực/nguồn lực, trình độ đến vai trò, tính gắn kết (liên kết trong vùng, giữa vùng với vùng khác và liên kết ở phạm toàn quốc), kể cả hiệu quả đóng góp phát triển kinh tế, xã hội.
Đặc biệt, các thước đo “sản phấm” của giáo dục đại học và khoa học công nghệ của vùng nhtr chất lượng nguồn nhân lực, mức độ thu hút, quy tụ chuyên gia/ chất xám (lợi thế để thu hút đàu tư, đóng góp tăng trưởng kinh tế), năng suất lao động và năng lực cạnh tranh cũng như các chỉ số của nền kinh tế vùng chưa cao, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và kỳ vọng phát triến” – PGS.TS Nguyễn Ngọc Vũ – Giám đốc Đại học Đà Nẵng (2), bổ sung nhìn nhận.
Lãnh đạo Đại học Đà Nẵng cho biết, đổi với vùng bắc Trung bộ – Duyên hải trung bộ, Đại học Đà Nang {đã, và} đang đào tạo, cung cấp nguôn nhân lực cho nhiều ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp lớn cho tàng trưởng kinh tế, thu hút đầu tư như: Công nghệ Dầu và Khí (tại Khu Kinh tế Dung Quất, Nhà máy Lọc hoá Dầu Bình Sơn); Điện lực (tại Tập đoàn Điện Lực Việt Nam, Tổng Công ty Điện lực miền Trung); Công nghệ Ô tô (tại Tập đoàn THACO Trường Hải-Chu Lai), các lĩnh vực Giao thông – Ngân hàng – Du lịch {công nghệ thông tin, điện tử – viễn thông, các ngành Ngoại ngữ}, ….
GS.TSKH Bùi Văn Ga (Nguyên Thứ trưởng Bộ GD&ĐT, nguyên Giám đốc Đại học Đà Nẵng) đóng góp ý kiến cho phiên thảo luận tại hội thảo. Ảnh: T.Ngọc.
Trần Ngọc
*Ngày 3/11/2022, Bộ Chính trị có Nghị quyết số 26-NQ/TW về “Phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”.
(1). Tham luận của TS. Nguyễn Dũng Anh- Phó Giám đốc Học viện Chính trị khu vực III: Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển Kinh tế – Xã hội vùng bắc Trung bộ và Duyên hải trung bộ theo
tinh thần Nghị quyết số 26-NQ/TW của Bộ Chính Trị.
(2) Tham luận của PGS.TS. Nguyễn Ngọc Vũ – Giám đôc Đại học Đà Năng: Phát triển Đại học Đà Nẵng thành Đại học quốc gia để đảm nhận sứ mệnh đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển vùng bắc Trung bộ và Duyên hải trung bộ đến năm 2030,
tầm nhìn đến năm 2045 theo Nghị quyết số 26-NQ/TW ; Phát biểu đề dẫn hội thảo.
Kỳ tiếp theo: Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho các tỉnh vùng bắc Trung bộ và Duyên hải trung bộ: Giải pháp cho điểm nghẽn