Seatimes – (ĐNA). Giới và chính sách bình đẳng giới luôn được coi như một nguyên tắc hoạt động của Đảng, Nhà nước ta. Bình đẳng giới nói chung và bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị nói riêng có vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị sẽ giúp bảo đảm tính đại diện của mỗi giới trong việc giải quyết những thách thức của xã hội, đáp ứng được nhu cầu và lợi ích của mỗi giới. Đồng thời, sự tham gia bình đẳng của mỗi giới trong lĩnh vực chính trị sẽ giúp cho việc huy động và sử dụng hiệu quả hơn nguồn lực của sự phát triển.
Sự hiện diện hạn chế của phụ nữ trong các cơ quan quyền lực không chỉ phản ánh bất bình đẳng giới, mà còn làm hạn chế tiềm năng phát triển của đất nước. Thúc đẩy bình đẳng giới trong chính trị phải được coi là mục tiêu cấp thiết nhằm kiến tạo môi trường phát triển bền vững. Bài viết tập trung phân tích sự cần thiết tăng cường sự tham chính của phụ nữ và những kết quả đạt được và các yếu tố tác động đến sự tham gia của phụ nữ trong lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay.
Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về tăng cường phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý
Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) coi Bình đẳng giới (BĐG), trong đó có BĐG về chính trị, vừa là mục tiêu vừa là động lực cho sự phát triển bền vững của đất nước. Nghị quyết 11-NQ/TƯ (2007) của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), Chỉ thị 21-CT/TƯ (2018) tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ, cùng các Văn kiện ở các kỳ Đại hội Đảng, v.v. đã thường xuyên nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào lĩnh vực chính trị. Thể chế hóa các nghị quyết của Đảng, Hiến pháp 2013, Luật bình đẳng giới 2006, Luật bầu cử đại biểu quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân 2015; v.v. cũng đã đề ra nhiều quy định nhằm bảo đảm tỷ lệ phụ nữ tham gia chính trị ngày càng cao, phù hợp với vị trí và vai trò của phụ nữ Việt Nam hiện nay.
Ngày 29 tháng 11 năm 2006, Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 10 đã thông qua Luật Bình đẳng giới, tạo ra hành lang pháp lý quan trọng để thực hiện mục tiêu bình đẳng nam nữ đã được Đảng cộng sản Việt Nam nêu ra từ Luận cương chính trị năm 1930. Tiếp đó, ngày 27-4-2007, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TW thể hiện rõ quan điểm về công tác cán bộ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước: “Xây dựng, phát triển vững chắc đội ngũ cán bộ nữ tương xứng với vai trò to lớn của phụ nữ là yêu cầu khách quan, là nội dung quan trọng trong chiến lược công tác cán bộ của Đảng”. Điều đó khẳng định quyết tâm của Đảng, Nhà nước thực hiện mục tiêu Bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam.
Nghị quyết 11/NQ-TW xác định một số nội dung định hướng quan trọng đối với công tác quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng và bố trí sử dụng cán bộ nữ: Xây dựng quy hoạch cán bộ nữ trong quy hoạch tổng thể về cán bộ của Đảng ở từng cấp, từng ngành, từng địa phương; Chăm lo đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ để chủ động về nhân sự; Thực hiện nguyên tắc bình đẳng giữa nam và nữ về độ tuổi trong quy hoạch, đào tạo, đề bạt và bổ nhiệm.Chỉ tiêu phát triển đội ngũ cán bộ nữ đến năm 2020: Tham gia cấp uỷ Đảng đạt từ 25% trở lên; Đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp từ 35% đến 40%; Cơ quan, đơn vị tỷ lệ nữ 30% trở lên nhất thiết có cán bộ lãnh đạo chủ chốt là nữ.
Với việc triển khai tích cực Luật Bình đẳng giới và Nghị quyết của Bộ Chính trị, ngay trong những năm cuối của thập niên thứ nhất thế kỷ 21, một số mục tiêu bình đẳng giới về chính trị, trong đó có chỉ tiêu cán bộ nữ tham gia cấp ủy, đã được thực hiện bước đầu. Số cán bộ nữ được sắp xếp vào các vị trí lãnh đạo cấp ủy đã tăng lên. Chẳng hạn, theo số liệu của Ban tổ chức TƯ và Đảng đoàn Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (Hội LHPNVN) thì cấp Bí thư TƯ và BCHTW (kể cả ủy viên dự khuyết) cũng như cấp ủy viên các cấp tỉnh/thành và cơ sở của nhiệm kỳ 2006-2010 đều tăng so với nhiệm kỳ trước đó. (Đảng đoàn Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam 2009).
Tiếp theo sau Nghị quyết 11/NQ-TW, Đảng đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo nhằm thực hiện các chỉ tiêu về sự tham gia của cán bộ nữ vào cấp ủy. Dưới đây lược lại một số văn bản gắn trực tiếp với công tác cán bộ nữ tham gia cấp ủy.
Kết luận số 55-KL/TW Ban Bí thư ban hành ngày 18/01/2013 về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW. Kết luận của Ban Bí thư nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thể chế hóa các nội dung Nghị quyết 11; tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện để tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển; đặc biệt quan tâm đến nội dung thực hiện nguyên tắc bình đẳng giữa nam và nữ về độ tuổi trong quy hoạch, đào tạo, đề bạt, bổ nhiệm, nghỉ hưu. Kết luận của Ban Bí thư cũng yêu cầu Ban Tổ chức Trung ương hướng dẫn thực hiện công tác cán bộ nữ để các cấp ủy đảng, ban, ngành, đoàn thể, địa phương xây dựng quy hoạch cán bộ nữ, trong đó tiếp tục nhấn mạnh đến việc thực hiện các chỉ tiêu như: Phấn đấu đến năm 2020, cán bộ nữ tham gia cấp ủy đảng các cấp đạt từ 25% trở lên; …Các cơ quan, đơn vị có tỉ lệ nữ từ 30%, nhất thiết có cán bộ lãnh đạo chủ chốt là nữ. Cơ quan lãnh đạo cấp cao của Đảng, Quốc hội, Nhà nước, Chính phủ có tỉ lệ nữ phù hợp với mục tiêu bình đẳng giới.
Thông báo số 196-TB/TW, ngày 16/3/2015 của Ban Bí thư về Đề án “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ trong tình hình mới”. Thông báo này nhấn mạnh việc các cấp ủy, tổ chức đảng phải làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và bổ nhiệm cán bộ nữ; thực hiện cho được mục tiêu nêu trong Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa X. Ban Bí thư cũng lưu ý làm tốt công tác nhân sự đại hội đảng bộ các cấp theo tinh thần “Cấp ủy viên nữ không dưới 15% và cần có cán bộ nữ trong ban thường vụ cấp ủy”.
Chỉ thị số 21-CT/TW, ngày 20/1/2018 của Ban bí thư về tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới. Bản Chỉ thị nhấn mạnh vai trò của người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền các cấp trong việc chỉ đạo, tổ chức thực hiện đồng bộ các giải pháp để đạt chỉ tiêu Nghị quyết số 11-NQ/TW về công tác cán bộ nữ; quan tâm tạo nguồn cán bộ nữ trẻ, nữ dân tộc thiểu số. Hoàn thiện các quy định về công tác cán bộ bảo đảm nguyên tắc bình đẳng giữa nam và nữ về độ tuổi trong quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm, luân chuyển đối với một số nhóm phụ nữ giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý phù hợp trong từng giai đoạn. Nghiên cứu tuổi nghỉ hưu đối với một số nhóm lao động nữ phù hợp với pháp luật về lao động và quá trình phát triển của đất nước. Đồng thời bản Thông báo cũng nhắc nhở Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các cấp về việc phát huy vai trò nòng cốt trong công tác phụ nữ, tích cực tạo nguồn cán bộ nữ cho hệ thống chính trị.
Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19//5/2018, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương, khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Nghị quyết này tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ phải có cán bộ nữ trong cơ cấu ban thường vụ cấp uỷ và tổ chức đảng các cấp và tỉ lệ nữ cấp uỷ viên các cấp đạt từ 20 – 25%.
Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 30/5/2019 của Bộ Chính trị về Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Bản Chỉ thị nêu rõ cơ cấu và tỷ lệ cấp ủy viên nữ và trách nhiệm của người đứng đầu các cấp ủy các cấp. Bản Chỉ thị cũng nhấn mạnh rằng cấp ủy các cấp, nhất là người đứng đầu phải chủ động và có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo việc rà soát, đánh giá để đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sắp xếp cán bộ nữ, …. vào các chức danh có cơ cấu tham gia cấp ủy khóa mới; đồng thời, có giải pháp hiệu quả chuẩn bị nguồn cán bộ cả trước mắt và lâu dài. Ban thường vụ cấp ủy cấp dưới báo cáo ban thường vụ cấp ủy cấp trên trực tiếp việc chuẩn bị văn kiện và phương án nhân sự cấp ủy, khi được cấp trên đồng ý mới tiến hành đại hội. Tuy nhiên, ở Chỉ thị này chỉ tiêu phấn đấu đã có giảm đi so với yêu cầu của NQ11/TƯ và với Chiến lược QG về BĐG 2011-2020, với mức phấn đấu đạt tỷ lệ cấp ủy viên nữ từ 15% trở lên và có cán bộ nữ trong ban thường vụ.
Chỉ thị số 46-CT/TW, ngày 28/7/2020 của Ban Bí thư về lãnh đạo Đại hội đại biểu phụ nữ các cấp và Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII, nhiệm kỳ 2022-2027. Ở Chỉ thị này Ban Bí thư yêu cầu phải nâng cao hơn nữa nhận thức, trách nhiệm của cấp uỷ đảng, chính quyền, tổ chức chính trị – xã hội, các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò của phụ nữ, về công tác phụ nữ và thực hiện bình đẳng giới. Đồng thời Ban Bí thư nhấn mạnh việc phải phát huy vai trò nòng cốt của tổ chức Hội trong giới thiệu nguồn cán bộ nữ cho Đảng, Nhà nước.
Ngày 14/6/2024, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 35-CT/TW về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. Tuy nhiên, trong Chỉ thị này, mức độ phấn đấu đạt tỉ lệ cấp ủy viên nữ vẫn giữ nguyên là từ 15% trở lên và có cán bộ nữ trong ban thường vụ. Đồng thời, quy định về độ tuổi tái cử và lần đầu tham gia cấp ủy vẫn giữ nguyên như các khóa trước, như vậy là cán bộ nữ vẫn có hạn chế hơn trong việc tham gia cấp ủy do độ tuổi về hưu chưa thay đổi nhiều so với trước thời điểm ban hành Bộ Luật Lao động 2019.
Như vậy, trong thời gian qua Đảng đã ban hành khá nhiều văn bản chỉ đạo về việc tăng cường đội ngũ cán bộ nữ nói chung và sự tham gia của cán bộ nữ trong tham gia lãnh đạo quản lý. Cùng với điều đó là những hướng dẫn cụ thể và việc triển khai các hoạt động cần thiết ở địạ phương. Tuy nhiên, qua các văn bản nêu trên cũng thấy được rằng các chỉ tiêu nêu ra chủ yếu mang tính định hướng phấn đấu, yêu cầu ràng buộc chưa thật sự chặt chẽ. Ngoài ra, căn cứ vào thực tiễn, chỉ tiêu cần đạt được về tỷ lệ cán bộ nữ tham gia cấp ủy hạ xuống thấp hơn mức phấn đấu ban đầu.
Thực trạng phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam
Những kết quả bước đầu qua đánh giá của Tổ chức diễn đàn kinh tế thế giới về khoảng cách giới trong chính trị ở Việt Nam.
Sự tham gia của phụ nữ trong lãnh đạo, quản lý không chỉ là mối quan tâm của Đảng, chính phủ, nhân dân Việt Nam mà còn là mối quan tâm của giới quan sát quốc tế vì đặc tính nhân quyền nhạy cảm của vấn đề này. Tổ chức Diễn đàn kinh tế thế giới (World Economic Forum – WEF) hàng năm đều có báo cáo thống kê về khoảng cách giới toàn cầu, trong đó Việt Nam luôn là một quốc gia nhận được sự quan tâm đánh giá của họ về bình đẳng giới. Báo cáo thống kê bao gồm 14 tiêu chí thuộc 4 nhóm: Cơ hội và sự tham gia vào các hoạt động kinh tế, trình độ học vấn, sức khỏe và sự sống còn, sự trao quyền chính trị. Thang điểm tính từ 0,000 (khoảng cách giới lớn nhất đến 1,000 (khoảng cách giới nhỏ nhất). Năm 2022, Việt Nam đứng thứ 83 trong bảng xếp hạng, nâng lên 4 bậc so với năm 2020, 2021 . So sánh kết quả đánh giá theo các nhóm tiêu chí trong những năm gần đây cho kết quả qua biểu đồ sau:
Biểu đồ: Đánh giá của WEF về khoảng cách giới ở Việt Nam từ 2017-2022
Theo số liệu thống kê của WEF, bình đẳng giới ở Việt Nam có những bước tiến đáng kể trong những năm gần đây. Các lĩnh vực được đánh giá cao về tốc độ thu hẹp khoảng cách giới là kinh tế, giáo dục và y tế. Khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị là lớn nhất trong tất cả các năm, nhưng cũng có xu hướng giảm. Điều này cho thấy Việt Nam có những nỗ lực, sáng kiến trong thúc đẩy trao quyền cho phụ nữ, trẻ em gái nói chung, trong lãnh đạo quản lý nói riêng và được cộng đồng thế giới ghi nhận.
Trong các nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị, tiêu chí thực hiện bình đẳng giới là tỉ lệ phụ nữ tham chính trong các cơ quan Đảng, Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương. Điều này xuất phát từ thực tế tỉ lệ phụ nữ tham chính trong hệ thống chính trị Việt Nam còn rất thấp. Bên cạnh đó, các tiêu chí về tỉ lệ phụ nữ tham chính cũng chính là các tiêu chí mà giới quan sát thế giới dùng để đo khoảng cách giới. Theo đó, chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 xác định: phấn đấu tỉ lệ nữ tham gia cấp ủy Đảng các cấp nhiệm kỳ 2016-2020 từ 25% trở lên, tỉ lệ nữ đại biểu quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 trên 35%; đến năm 2020 đạt 100% cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội có lãnh đạo chủ chốt là nữ nếu cơ quan, tổ chức có tỉ lệ 30% trở lên nữ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động(6). Chiến lược Quốc gia về Bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030 xác định mục tiêu đến năm 2025 đạt 60% và đến năm 2030 đạt 75% các cơ quan quản lý nhà nước, chính quyền các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ (7).
Sự tham gia lãnh đạo, quản lý của Phụ nữ trong cơ quan Đảng
Các chỉ tiêu đánh giá bình đẳng giới trong cơ quan Đảng là tỉ lệ nữ đảng viên và tỉ lệ nữ tham gia ban chấp hành các cấp. Tỉ lệ này là 20,9% năm 2005, tăng lên hơn 10% vào 5 năm sau đó (2010 là 32,8%) và dao động ổn định trong khoảng từ 31% đến 33% các năm từ 2016-2019(8). Đặc biệt tính đến 30/9/2020, nhiệm kỳ 2015-2020, tỉ lệ đảng viên nữ mới kết nạp chiếm 43,72%(9).Vì vậy, đa số lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị ở Việt Nam đều là đảng viên. Tỉ lệ đảng viên nữ là nguồn nhân lực quan trọng cho phát triển lực lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý là nữ giới.
Đảng và Nhà nước đã có nhiều nỗ lực triển khai các hoạt động về công tác bình đẳng giới, kết quả đạt được về bình đẳng giới trong chính trị, trong đó các chỉ tiêu hết sức quan trọng là tỷ lệ cán bộ nữ tham gia cấp ủy, chưa đáp ứng được yêu cầu. Báo cáo rà soát tình hình thực hiện Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 cho thấy các chỉ tiêu bình đẳng giới về chính trị đều không đạt, trong đó chỉ tiêu tham gia cấp ủy Đảng (25% trở lên), chỉ đạt đối với cấp ủy xã (Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội và cơ quan khác 2021). Tại thời điểm 6/2024, theo tổng hợp của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2024), tỷ lệ cán bộ nữ tham gia cấp ủy các cấp là: 15,96% với cấp tỉnh, 19,63% với cấp huyện, và 24,77% với cấp xã. Tuy nhiên, cũng lưu ý rằng, với sự chỉ đạo quyết liệt của các cấp ủy Đảng trong thời gian chuẩn bị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, tỷ lệ cán bộ nữ tham gia cấp ủy Đảng đã đạt được theo chỉ tiêu hướng dẫn của Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 30/5/2019 của Bộ Chính trị.
Như vậy, trong 3 nhiệm kỳ gần đây (XI, XII, XIII), tỉ lệ nữ lãnh đạo cấp trung ương trong Đảng không ổn định, trong đó nhiệm kỳ XII có sự nhảy vọt cả về tỉ lệ nữ đại biểu Đại hội, nữ ủy viên Ban chấp hành trung ương và nữ ủy viên Bộ Chính trị. Đại hội XIII có sự suy giảm đáng kể ở cả 3 chỉ số trên, đặc biệt là tỉ lệ nữ ủy viên bộ chính trị. Phân tích sâu hơn có thể thấy rằng, tỷ lệ cán bộ nữ tham gia cấp ủy cấp xã cao nhất là ở Bình Dương 38,1%; tiếp đến là Hải Phòng 36,3% và thấp nhất là ở Đắk Nông 8,8%. Đối với cấp huyện cao nhất là ở Lạng Sơn 30%, tiếp đến là Ninh Bình 28%; Bình Dương 27,2%; Thành Phố Hồ Chí Minh 27,3%; và thấp nhất là ở Bắc Giang 11,6%; Trà Vinh 13,8%. Đối với cấp tỉnh cao nhất là ở Tuyên Quang 29,2%; tiếp đến là Bình Phước 28,3%, và thấp nhất Lâm Đồng 3,9%; Quảng Bình 8,2%.
Theo số liệu báo cáo ngày 20/01/2021 của Ban Tổ chức, Trung ương Hội LHPNVN, 46/63 tỉnh, thành phố có tỷ lệ nữ cán bộ tham gia cấp ủy cấp tỉnh nhiệm kỳ 2020-2025 tăng, cao nhất là tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Hiện tại, số nữ Bí thư cấp tỉnh là 06 người, nữ Phó Bí thư cấp tỉnh là 15 người. Trình độ của nữ cấp uỷ các cấp cũng được chuẩn hoá: Cấp tỉnh: 100% đạt trình độ đại học trở lên và cao cấp lý luận chính trị hoặc cử nhân; Cấp huyện: 99,7% đạt trình độ đại học trở lên và 90,2% đạt trình độ cao cấp lý luận chính trị hoặc cử nhân; Cấp xã: 85,8% đạt trình độ đại học trở lên và 91% đạt trình độ cao cấp lý luận chính trị hoặc cử nhân. Đây là một tỷ lệ khá cao, cho thấy phụ nữ đã chủ động học tập nâng cao trình độ và hoàn thiện các điều kiện, chuẩn hoá bằng cấp, chuẩn bị cho những vị trí lãnh đạo khi được bầu hoặc trúng cử.
Mặc dù các tỉnh/thành phố đã có nhiều cố gắng và đạt được những kết quả nhất định trong công tác cán bộ nữ nhưng công tác cán bộ nữ vẫn còn một số vấn đề cần quan tâm: Nhiều tỉnh chưa đạt chỉ tiêu về số lượng cán bộ nữ trong cấp ủy, vẫn còn đơn vị không có nữ trong cấp ủy của xã. Số cấp ủy không có nữ tham gia Ban thường vụ nhiều, không chỉ ở cấp xã, mà cả ở cấp huyện, cấp tỉnh. Nhiều tỉnh 2 nhiệm kỳ liên tiếp đều có tỷ lệ nữ cấp ủy cấp tỉnh thấp, dưới hoặc chỉ xấp xỉ 10%… Tỷ lệ nữ uỷ viên Bộ Chính trị là 5,6% thấp hơn nhiều so với nhiệm kỳ 2016 – 2021 (15,8%). Tỷ lệ nữ uỷ viên dự khuyết cũng sụt từ 15% nhiệm kỳ trước xuống 5% nhiệm kỳ này. So với nhiệm kỳ 2015 – 2020, nhiệm kỳ 2020 – 2025 nữ bí thư, phó bí thư cấp huyện và cấp xã đều thấp hơn1: Cấp huyện: nữ bí thư 7,4% (nhiệm kỳ 2015-2020 là 9,7%), phó bí thư 5,9% (nhiệm kỳ 2015-2020 là 9,4%). Cấp xã: nữ bí thư 8% (nhiệm kỳ 2015-2020 là 11,4%), phó bí thư 11,5% (nhiệm kỳ 2015-2020 là 14,8%).
Trên thực tế hiện vẫn còn 1.957 cơ sở (chiếm 18,5%), 145 huyện (chiếm 20,8%) và 28 tỉnh (chiếm 44,5%) chưa đạt tỷ lệ 15% trở lên, cá biệt còn 84 cơ sở và 1 đơn vị cấp huyện chưa có nữ tham gia cấp ủy. Còn 51,5% cơ sở, 7,2% huyện và 3,2% tỉnh trên toàn quốc không có cán bộ nữ trong ban thường vụ. Có nơi gần 80% cơ sở không có cán bộ nữ trong ban thường vụ (Bắc Ninh, Lai Châu). Như vậy, về chỉ tiêu có cán bộ nữ trong ban thường vụ trong Chỉ thị 35-CT/TW, đối với cấp huyện và cấp tỉnh cơ bản là đạt, còn cấp sơ sở không đạt. Bên cạnh đó, tỷ lệ đại biểu nữ tham dự đại hội thấp (cấp tỉnh chưa đạt 20%). Hiện còn 46 huyện và 4 tỉnh không có cán bộ Hội tham gia cấp ủy. Một số nguyên nhân chủ yếu là do có nơi Chủ tịch Hội LHPN không đủ tuổi tái cử, nên cấp ủy để khuyết cơ cấu, bổ sung sau; cá biệt, vẫn còn có nơi cán bộ Hội có trong danh sách bầu cử, song không trúng cử.
Sự tham gia của Phụ nữ trong Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp
Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp là các cơ quan do nhân dân bầu ra. Sự tham gia của phụ nữ trong các cơ quan này một mặt phản ánh sự tín nhiệm của người dân đối với năng lực tham chính của phụ nữ, một mặt tạo cơ hội nhiều hơn cho bảo vệ quyền lợi của phụ nữ thông qua lồng ghép giới vào các chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Tỉ lệ nữ đại biểu quốc hội qua 15 nhiệm kỳ đại hội được đánh giá là dao động ở ngưỡng thấp. Trong đó, thấp nhất là khóa I (1946-1960) với 10/33 nữ đại biểu (3%), khóa II (1960-1964) là 49/362 (13,54%), khóa III (1964-1971) là 62/366 (16,94%); và khóa VIII (1987-1992) là 88/496 nữ đại biểu (17,74%). Các nhiệm kỳ có tỉ lệ nữ đại biểu quốc hội cao nhất là khóa V (1975-1976): 137/424 (32,31%) và khóa XV (2016- 2021): 151/499 (30,26%). Các nhiệm kỳ còn lại dao động trong khoảng 21% đến 26%(14).
Lần đầu tiên Việt Nam có nữ chủ tịch Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIV (2016- 1921) . Nhiệm kỳ 2021-2025, không có nữ trong 5 vị trí lãnh đạo Quốc hội (Chủ tịch và 4 Phó chủ tịch). Trong 10 ủy ban của Quốc hội, tỉ lệ nữ chủ nhiệm là 2/10 (20%), nữ phó chủ nhiệm là 7/45 (16,3%), nữ thành viên thường trực 15/36 (41,7%) và nữ thành viên ủy ban là 93/323 (28%)(15).
Nhiệm kỳ 2021- 2026 có 13/63 (20,6%) nữ chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh(16). Tỉ lệ nữ đại biểu cấp tỉnh là 29%, cấp huyện là 29,08%, cấp xã là 28,98%, tăng tương đương 2,4%, 1.58%, và 2,38% so với nhiệm kỳ 2011-2016(17).
Tỉ lệ nữ đại biểu quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp tuy chưa đạt được mục tiêu chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 đã đề ra (phấn đấu đạt 35% nữ đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp). Tuy nhiên, tỉ lệ này tăng theo các nhiệm kỳ. Đặc biệt ở nhiệm kỳ quốc hội khóa XV, lần thứ 2 trong suốt 15 nhiệm kỳ quốc hội, tỉ lệ nữ đại biểu quốc hội đạt trên 30%, tỉ lệ này đưa Việt Nam lên vị trí thứ 51 trên thế giới, thứ 4 ở châu Á và đứng đầu trong Hội đồng Liên minh nghị viện Hiệp hội các nước Đông Nam Á về nữ đại biểu quốc hội(18). Bên cạnh đó, nhiệm kỳ 2021-2026 là nhiệm kỳ có tỉ lệ nữ đại biểu hội đồng nhân dân các cấp tăng đột biến so với các nhiệm kỳ gần đây và cao nhất ở mức 29% (19).
Sự tham gia lãnh đạo, quản lý của Phụ nữ trong các cơ quan nhà nước
Bộ máy hành chính nhà nước Việt Nam được tổ chức theo 4 cấp từ cấp trung ương đến địa phương. Tỉ lệ phụ nữ tham gia lãnh đạo quản lý ở các cấp này cũng có sự biến động nhẹ trong thời gian gần đây.
Ở cấp trung ương, tỉ lệ nữ lãnh đạo quản lý được phản ánh ở cơ cấu tổ chức và thành viên của chính phủ (thủ tướng, các phó thủ tướng, các bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan ngang bộ) Trong suốt 15 nhiệm kỳ Chính phủ, Việt Nam chưa có nữ thủ tướng, phó thủ tướng chính phủ. Tỉ lệ nữ thành viên chính phủ khóa XV là 3/32 (9,37%)(20), tỉ lệ nữ thành viên chính phủ đương nhiệm là 3/27 (11.1%)(21). Trong 15 nhiệm kỳ, Việt Nam có 2 lần phụ nữ nắm giữ vị trí quyền chủ tịch nước trong khoảng thời gian ngắn và phó chủ tịch nước đương nhiệm là nữ. Hiện tại, có 2/63 (3,17%) nữ chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh .Tỉ lệ lãnh đạo quản lý ở cơ quan nhà nước các cấp tính đến tháng 12/2022 theo mục tiêu chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030: ở các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ có lãnh đạo chủ chốt là nữ là 15/30 (50%), tăng 3,4% so với năm 2021. Trong đó, số liệu các bộ, cơ quan ngang bộ có lãnh đạo chủ chốt là nữ là 13/22 (59%), tăng 6% so với 2021; các cơ quan thuộc chính phủ có nữ lãnh đạo chủ chốt là 2/8 (25%); có 3 nữ Bộ trưởng, 1 thủ trưởng cơ quan thuộc chính phủ, 12 nữ thứ trưởng và tương đương. Tỉ lệ uỷ ban nhân dân các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ (cấp tỉnh, huyện, xã) tương ứng là 37,7%, 31,77% và 24,94%. Tỉ lệ này được đánh giá là ổn định so với đầu nhiệm kỳ (2021)(22).
Như vậy, có thể thấy rằng, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong thúc đẩy bình đẳng giới trong các cơ quan nhà nước trong thời gian gần đây, đặc biệt là ở các cơ quan trung ương. Theo mục tiêu chiến lược quốc gia về bình đẳng giới, có nhiều khả năng thực hiện mục tiêu về tỉ lệ nữ lãnh đạo, quản lý (60% năm 2025, 75% năm 2030) ở các cơ quan trung ương, nhưng khó đạt được mục tiêu này ở cơ quan nhà nước cấp địa phương.
Nhìn chung từ thực tiễn về tình hình phụ nữ tham chính ở Việt Nam đã khẳng định Đảng và Nhà nước có nhiều nỗ lực trong thúc đẩy bình đẳng giới trong chính trị thông qua các nghị quyết, chính sách, chiến lược, pháp luật có tính liên tục, bám sát với tình hình thực tiễn; tỉ lệ phụ nữ tham chính còn thấp trong cả hệ thống chính trị; Có sự gia tăng trong tỉ lệ phụ nữ tham chính trong Đảng, Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương nhưng còn thấp. Sự gia tăng của đại biểu nữ trong Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp được coi là điểm sáng trong thúc đẩy bình đẳng giới trong chính trị ở Việt Nam thời gian gần đây. Trong các cơ quan trung ương, đã có những vị trí lãnh đạo, quản lý cấp cao được nắm giữ bởi phụ nữ, tạo nhiều cơ hội hơn cho việc xây dựng các chính sách mới có lồng ghép giới.
Một số yếu tố tác động đến sự tham gia của phụ nữ trong lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam
Tỷ lệ cán bộ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam chịu tác động của các yếu tố rào cản khác nhau từ khâu hoạch định và thực thi các chính sách bình đẳng giới trong chính trị; phát triển nguồn nhân lực; văn hóa truyền thống, định kiến giới; v.v. Bài viết chỉ tập trung vào một số yếu tố sau:
Hoạch định và thực thi các chính sách về bình đẳng giới trong chính trị
Hệ thống các văn bản pháp luật và chính sách về bình đẳng giới ở Việt Nam tương đối hoàn thiện. Công tác triển khai các văn bản, chỉ thị Nghị quyết của Đảng, của địa phương liên quan đến bình đẳng giới nhìn chung được chỉ đạo triển khai khá tốt. Công tác cán bộ nữ về cơ bản được quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo, tạo điều kiện thuận lợi trong đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn, luân chuyển các vị trí hướng tới đảm bảo cơ cấu về tỉ lệ nữ một cách phù hợp. Các địa phương chuẩn bị tương đối tốt cho đội ngũ cán bộ nữ về chất lượng, bảo đảm đa số đạt chuẩn về chuyên môn nên thuận lợi hơn trong công tác quy hoạch, bố trí cơ cấu nữ tham gia cấp ủy, HĐND, đảm bảo tiêu chuẩn theo quy định.
Tuy nhiên, trong một số văn bản chỉ đạo của Đảng chưa có sự thống nhất, đồng bộ về chỉ tiêu cần đạt trong công tác cán bộ. Chẳng hạn, các chỉ tiêu nêu ra ở Nghị quyết 11/NQ-TƯ năm 2007 và một số văn bản sau đó như Hướng dẫn số 15-HD/BTCTW ngày 05/11/2012; Nghị quyết 26-NQ/TƯ ngày 19/5/2018 của Ban chấp hành Trung ương về Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp ; Chỉ thị 35-CT/TW ngày 30/2/2019 của Ban chấp hành Trung ương về Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng chưa thực sự thống nhất.
Một số chính sách liên quan đến công tác cán bộ chưa tạo thuận lợi cho nữ giới trong tiếp cận các cơ hội học tập nâng cao trình độ. Một số quy định chung về tiêu chí đào tạo, hình thức đào tạo, phương thức luân chuyển cán bộ, quy hoạch cán bộ còn chưa linh hoạt, chưa mang tính nhạy cảm giới. Điều đó làm cho cán bộ nữ gặp nhiều khó khăn hơn so với cán bộ nam trong việc chuẩn bị các điều kiện cho việc được đề bạt, bổ nhiệm.
Ví dụ: Trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ nữ về chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị, mặc dù được tạo điều kiện nhưng hình thức tổ chức học tâp trung ở độ tuổi trẻ cũng tạo ra những rào cản nhất định đối với cán bộ nữ. Theo Quy định Số: 57-QĐ/TW, ngày 08 tháng 02 năm 2022, đối tượng cán bộ học không tập trung đối với hệ Trung cấp lý luận là nữ từ 33 tuổi và nam từ 35 tuổi; hệ Cao cấp lý luận là nữ từ 38 tuổi và nam từ 40 tuổi.Sự chênh lệch này thoạt nhìn là sự tạo điều kiện cho nữ giới, nhưng độ tuổi dưới 33 và 38 thường là độ tuổi thai sản, nuôi con nhỏ làm hạn chế khả năng tham gia của cán bộ, công chức nữ.
Một số quy định của Trung ương về chỉ tiêu quy hoạch hay bổ nhiệm cán bộ còn mang tính định hướng, chưa bắt buộc và không có chế tài kèm theo. Các quy định về quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa có cơ chế, lộ trình dài hạn để đảm bảo tỷ lệ cán bộ nữ được quy hoạch các chức danh. Mặc dù Nghị quyết 11-NQ/TƯ năm 2007 quy định phải bảo đảm tỷ lệ nữ tham gia các khóa đào tạo tại các trường lý luận chính trị và quản lý nhà nước từ 30% trở lên nhưng theo Báo cáo Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 11-NQ/TƯ thì trên thực tế chưa đạt được tỷ lệ này. Về tỷ lệ cấp ủy viên là nữ, trong Chỉ thị số 35-CT/TƯ ngày 14/6/2024, chỉ tiêu đặt ra vẫn là: Phấn đấu đạt tỷ lệ cấp ủy viên nữ từ 15% trở lên và có cán bộ nữ trong ban thường vụ.
Một số văn bản hướng dẫn thực hiện chính sách chưa được ban hành kịp thời để đảm bảo quyền lợi cho các đối tượng thụ hưởng chính sách. Ví dụ, theo Nghị định số 48/2009/NĐ-CP, Chính phủ giao Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ LĐTBXH, Bộ Tài chính và các Bộ, ngành khác có liên quan xây dựng, trình cơ quan có thẩm quyền ban hành hướng dẫn và tổ chức thực hiện quy định hỗ trợ nữ cán bộ, công chức, viên chức khi tham gia đào tạo, bồi dưỡng mang theo con dưới ba mươi sáu tháng tuổi. Tuy nhiên, đến năm 2023 vẫn chưa có văn bản hướng dẫn của Bộ Nội vụ về tổ chức thực hiện.
Định kiến giới trong lãnh đạo, quản lý.
Mặc dù cho bối cảnh kinh tế – xã hội ở Việt Nam đã thay đổi và nhận thức của cán bộ lãnh đạo và các tầng lớp nhân dân về bình đẳng giới đã được nâng lên nhưng định kiến giới vẫn tồn tại đáng kể trong xã hội (Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội và cơ quan khác, 2021). Điều đó tạo ra sự không công bằng về cơ hội, điều kiện để hai giới tham gia lãnh đạo, quản lý và tước đoạt cơ hội bình đẳng trong việc mưu cầu các lợi ích phát triển của bản thân phụ nữ.
Định kiến giới thường dẫn đến sự hình thành khuôn mẫu giới tính trong lãnh đạo, quản lý, gắn đàn ông với quyền lực và khả năng quản lý, từ đó dẫn đến thái độ không ủng hộ phụ nữ tham gia lãnh đạo. Chính sự tác động của khuynh hướng thiên vị này đưa đến hệ quả phụ nữ lãnh đạo, quản lý thường bị dò xét và đánh giá khắt khe hơn nam giới. Nếu có sai sót trong quá trình lãnh đạo, quản lý, phụ nữ luôn bị phán xét là chỉ biết lo cho gia đình và thường bị đánh giá thấp hơn nam giới khi họ tham gia vào những vị trí mà nam giới thường đảm nhiệm. Nhiều nam giới không thích lãnh đạo của mình là phụ nữ và thậm chí, phụ nữ cũng không thích lãnh đạo của mình là cùng giới với họ. Điều này gây ảnh hưởng khá nghiêm trọng đối với sự nghiệp chính trị của phụ nữ, tạo nên rào cản đối với họ ngay từ khâu lựa chọn nhân sự.
Ở cấp độ tổng thể, các đặc điểm về cấu trúc, thể chế và văn hóa nêu trên đã có ảnh hưởng lớn đến quá trình đấu tranh cho bình đẳng giới nói chung và bình đẳng giới trong chính trị cũng như sự tham gia của cán bộ nữ vào lãnh đạo, quản lý nói riêng ở Việt Nam.
Phát triển nguồn nhân lực nữ
Nguồn nhân lực nữ cho thực hiện bình đẳng giới trong chính trị còn chưa được chuẩn bị sẵn sàng. Các chỉ tiêu thực hiện bình đẳng giới trong chính trị ở Việt Nam còn tương đối thấp phản ánh thực trạng này. Trong thực tế, các chỉ tiêu bình đẳng giới là các chỉ tiêu mở, việc thực hiện vượt chỉ tiêu luôn được khuyến khích, nhưng do nguồn nhân lực nữ còn chưa sẵn sàng, đặc biệt là về năng lực, kỹ năng tham chính dẫn tới không thực hiện được các chỉ tiêu trong mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới. Bên cạnh đó, một bộ phận nữ giới cũng chưa thực sự chủ động, dấn thân trong quá trình tham chính.
Mặc dù Việt Nam có số lượng lao động dồi dào và có nhiều cải thiện về chất lượng nguồn nhân lực trong những năm gần đây, nhưng tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp và còn tồn tại khoảng cách giới về đào tạo nghề. Cho đến nay chỉ có 26,4% lao động đã qua đào tạo trên cả nước và tỷ lệ này ở nữ giới cũng thấp hơn rất nhiều so với nam giới, 23,9% so với 28,7% năm 2022. Điều này tạo ra nhiều thách thức đối với lao động nữ, nhất là trong bối cảnh khoa học công nghệ đang phát triển nhanh chóng. Cùng với điều đó, mặc dù tiền lương của lao động nữ đã được tăng lên trong những năm qua, khoảng cách về thu nhập giữa lao động nam và nữ vẫn còn đáng kể và dao động thất thường trong hơn thập niên qua. Theo số liệu thống kê 2022 của Tổng cục thống kê, tiền lương bình quân tháng của lao động nam làm công ăn lương là 7.946.700 đồng/ tháng và với lao động nữ là 6.977.100 đồng/ tháng. Thu nhập của nam giới cao hơn nữ giới ở tất cả các nhóm chuyên môn kỹ thuật và có sự chênh lệch thu nhập theo giới tính ở mức khoảng 12,2% (Tổng cục thống kê, 2023). Tình trạng này tiếp tục duy trì khuôn mẫu phân công lao động theo giới, theo đó nhiều phụ nữ chấp nhận trách nhiệm chính trong công việc nhà, ưu tiên công việc ngoài xã hội cho nam giới.
Tóm lại, Tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong lãnh đạo chính trị ở Việt Nam hiện nay là một vấn đề quan trọng trong tiến trình thúc đẩy bình đẳng giới và phát triển bền vững. Dù Việt Nam đã đạt được những tiến bộ nhất định, thực trạng vẫn cho thấy sự hiện diện của phụ nữ trong các vị trí lãnh đạo còn hạn chế. Các yếu tố tác động đến sự tham gia của phụ nữ bao gồm từ hoạch định và tổ chức thực thi chính sách. định kiến giới, vai trò truyền thống trong gia đình, sự thiếu hụt các chính sách hỗ trợ và cơ hội đào tạo …Định kiến xã hội, cho rằng vai trò lãnh đạo phù hợp với nam giới hơn, vẫn là một trong những trở ngại lớn nhất, khiến nhiều phụ nữ gặp khó khăn trong việc theo đuổi các vị trí quyền lực. Bên cạnh đó, trách nhiệm gia đình thường được xem là gánh nặng mà phụ nữ phải ưu tiên, làm hạn chế thời gian và khả năng của họ trong việc tham gia chính trị. Ngoài ra, cơ chế hỗ trợ và cơ hội đào tạo nhân lực, phát triển dành cho phụ nữ trong chính trị vẫn chưa thực sự hiệu quả, cần có thêm các chính sách cụ thể nhằm thúc đẩy sự tham gia của họ. Việc thay đổi thực trạng này đòi hỏi sự can thiệp từ nhiều phía, bao gồm việc cải thiện nhận thức xã hội, áp dụng các chính sách hỗ trợ mạnh mẽ hơn, và tạo ra môi trường chính trị minh bạch, bình đẳng.
ThS.Chu Thị Thu Huyền, ThS.Hồ Nhân Linh
Những bài viết liên quan trên Tạp chí Đông Nam Á:
*Chính sách bình đẳng giới Việt Nam: Thành tựu và hàm ý chính sách hiện nay.
*Thực trạng và giải pháp thực hiện bình đẳng giới của tỉnh Bình Phước trong giai đoạn hiện nay
Tài liệu tham khảo
Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
Xem: Thủ tướng Chính phủ (2010), “Quyết định số 2351/QĐ-TTg ngày 24 tháng 12 năm 2010: Phê duyệt Chiến lược Quốc gia về Bình đẳng giới giai đoạn 2011- 2020”.
Xem: Thủ tướng Chính phủ (2021), “Nghị quyết số 28/NQ-CP ngày 3 tháng 3 năm 2021: Ban hành Chiến lược Quốc gia về Bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030”.
Cơ quan Liên Hợp quốc về trao quyền cho phụ nữ (2021), Tổng quan về bình đẳng giới ở Việt Nam 2021, tr.157, 160.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập II, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.188.
Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (truy cập 2/6/2023), “Hệ thống tư liệu- văn kiện Đảng”, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/bo-chinh-tri/khoa-x.
Công tác cán bộ nữ, “Nữ đại biểu qua các thời kỳ”, https://www.moha.gov.vn/congtaccanbonu/solieuthongke/nu-dai-bieu-qua-cac-thoi-ky-38253.html.
PVCT, Báo điện tử Dân Việt (2021), “Chân dung 13 nữ lãnh đạo đứng đầu cơ quan quyền lực Nhà nước của tỉnh”, https://danviet.vn/chan-dung-13-nu-lanh-dao-dung-dau-co-quan-quyen-luc-nha-nuoc-cua-tinh-20210710081741747.htm.
Long Hồ (2021), “Việt Nam đứng đầu trong Hội đồng Liên minh nghị viện Hiệp hội các nước Đông Nam Á về tỉ lệ nữ đại biểu Quốc hội”, https://www.hcmcpv.org.vn/tin-tuc/viet-nam-dung-dau-trong-hoi-dong-lien-minh-nghi-vien-hiep-hoi-cac-nuoc-dong-nam-a-ve-ty-le-nu-dai-bi-1491880652.
“Chính phủ nhiệm kỳ quốc hội khóa XV”, https://chinhphu.vn/thanh-vien-chinh-phu-qua-cac-thoi-ky-68352?governId=2856.
“Chính phủ Việt Nam đương nhiệm”, https://chinhphu.vn/chinh-phu-duong-nhiem-68345.
Chính phủ (2023), “Báo cáo số 95/BC-CP ngày 31 tháng 3 năm 2023: kết quả thực hiện các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới 2022”.